Sunday, May 8, 2011

TRƯỜNG THỌ THẬP BÍ QUYẾT-10 PHÚTMỖI NGÀY.

Thuật‎ > ‎
Trường Thọ Thập Bí Quyết

TRƯỜNG THỌ THẬP BÍ QUYẾT

Tác giả: ...

Kiện khương Trường Thọ Thập Bí Quyết này chẳng qua chỉ là những phương pháp áp dụng trong vòng 10 phút đồng hồ để tự chữa một số bệnh tật thông thường. Trong vòng mười phút thôi, chúng ta có thể tự mình đả thông các huyệt đạo quan yếu liên hệ. Mười phương pháp vận động kinh mạch toàn thân này rất giản dị. Chúng ta có thể áp dụng tại bất cứ nơi chốn nào và thời điểm nào trong ngày cũng rất thích hợp nên rất tiện lợi cho mọi người trong mọi lứa tuổi.
Chúng ta không cần phải mua sắm dụng cụ thể thao, không cần đóng học phí cho trường huấn luyện mà ở tại nhà hoặc tại văn phòng hay nơi làm việc cũng có thể tùy tiện thực tập trong vòng giây lát. Mọi người trong chúng ta nếu muốn được sống khỏe, sống vui và sống trường thọ, xin hãy áp dụng các phương pháp dưỡng sinh này ngay từ bây giờ thì hiệu lực vô cùng hữu ích. Các phương pháp châm cứu, áp chỉ, án ma trong y học cổ truyền Trung Quốc hoàn toàn dựa trên nền tảng lấy sự vận hành của kinh mạch làm chủ yếu. Tuy nhiên châm cứu quan trọng hơn và có tính cách chuyên khoa hơn. Do đó người áp dụng phương pháp này phải là những nhà y học chuyên nghiệp.
Còn áp chỉ và án ma là thứ yếu, là phụ kiện, và trong dân gian ai cũng có thể học được để tự chữa bệnh cho chính mình hoặc cho chính người thân của mình. Tuy nhiên không phải vì thế mà kém phần công hiệu. Vả lại, nếu chúng ta áp dụng thường xuyên mỗi ngày không những phòng chống được bệnh tật mà còn được khỏe mạnh, kéo dài được tuổi thanh xuân và trường thọ nữa. Khi nhức đầu thì mình trị nhức đầu, đau chân thì trị đau chân..., liên tục trấn áp bịnh tật không cho nó có cơ hội phát khởi thì thử hỏi sao mà không thể sống khỏe được. Về vấn đề vận hành kinh mạch trong cơ thể của con người, chúng ta có thể phân chia làm mười bộ phận và vị trí khác nhau.

Mắt : Tình Minh Huyệt và Thái Dương Huyệt.
Tai : Phía sau ót có huyệt Minh Thiên Cổ.
Mũi : Nghinh Hương Huyệt.
Miệng: Phương pháp vận động của môi và răng.
Mặt : Tất cả các huyệt đạo trên mặt.
Cổ : Phía trước và phía sau của cổ.
Ngực : Các kinh mạch tiếp cận ở phổi.
Tay : Hiệp Cốc Huyệt, lòng bàn tay và lưng bàn tay.
Thắt lưng : Huyệt Mạng Môn ở phía sau thắt lưng.
Chân : Huyệt Túc Tam Lý.
Những huyệt đạo trong mười bộ phận của cơ thể con người rất quan trọng và mỗi huyệt phụ trách các nhiệm vụ khác nhau. Cho nên nếu hàng ngày chúng ta xoa bóp hay uốn nắn nó, làm cho nó được linh hoạt thì khả năng tiêu trừ bịnh tật rất cao. Giống như cơ thể của chúng ta, sau một ngày làm việc mệt mỏi cũng cần phải được nghỉ ngơi bằng giấc ngủ và dùng ba bữa ăn để bồi dưỡng. Phương pháp áp chỉ hay án ma này rất dễ thực hành. Chỉ cần nhớ một điều là trước khi áp dụng, chúng ta phải xoa mười đầu ngón tay và lòng bàn tay cho nóng gọi là để cho có tĩnh điện rồi mới bắt đầu thực hành.
Phương Pháp Thực Hành
1.-Mắt Và Thị Giác:
Trong dân gian chúng ta thường nói, mắt là cửa sổ của tâm hồn, là cơ quan trọng yếu của con người giúp chúng ta trông thấy và phân biệt được mọi vật cụ thể ở chung quanh mình và trong phạm vi sinh hoạt. Chung quanh của mắt được bố trí các huyệt đạo như sau: Tình Minh huyệt, Ty Trúc Không huyệt và Ðồng Tử Giao huyệt v.v... Những huyệt đạo này có nhiệm bảo vệ và dinh dưỡng cho mắt luôn luôn được khỏe mạnh và trong sáng. Cho nên hàng ngày chúng ta phải xoa nắn các huyệt đạo này để cho nó lúc nào cũng linh hoạt nhờ máu huyết lưu thông điều hòa dể nuôi dưỡng các thần kinh của mắt và thị giác.
Nếu chúng ta kiên tâm áp dụng hàng ngày có thể chận đứng được sự phát sinh của các chứng bệnh cận thị, viễn thị, loạn thị, đục nhân mắt và võng mô bị kết mạc. Ngoài ra phương pháp này cũng còn làm cho mắt trông lanh lẹ và có thần sắc. Ðây là phương pháp xoa mắt theo lối áp chỉ. Hai bàn tay được xoa đi xoa lại nhiều lần làm cho nóng các ngón tay để phát sinh ra tĩnh điện.
Sau đó dùng hai ngón giữa ấn lên Tình Minh Huyệt của hai mắt, kéo vòng lên chân mày tới Ty Trúc Không Huyệt, vòng xuống Ðồng Tử Huyệt và sau cùng trở lại Tình Minh Huyệt coi như xoa được một vòng (Xem hình B và C). Sức mạnh ấn xuống trong lúc xoa mắt vừa phải, không quá mạnh mà cũng không quá yếu. Trong khi xoa, đôi mắt nhắm lại, sau khi xoa xong, không nên mở mắt liền mà phải tiếp tục nhắm mắt từ 30 giây đến một phút
Trong khi chưa mở mắt ra, chúng ta dùng đầu của hai ngón tay cái ấn lên huyệt Thái Dương, di động vòng vòng trong một vòng tròn nhỏ, từ 21 tới 36 lần. (Xem hình D). Phương pháp này có thể làm cho tỉnh não sau khi làm việc mệt nhọc vì vận dụng trí óc nhiều và cũng chữa được chứng nhức đầu rất hay.
2.-Xoa Tai:
Chung quanh tai của con người có rất nhiều huyệt đạo (Hình E). Các huyệt đạo này lại liên quan đến hầu hết các bộ phận trong cơ thể. Cho nên chỉ cần xoa bóp hai bên tai là có thể đã đánh thức sự vận hành của các cơ quan trong toàn thân. Cách xoa là áp hai lòng bàn tay vào tai, kẹp phần dưới của hai vành tai giữa hai ngón trỏ và ngón giữa rồi xoa theo cử động đưa lên đưa xuống từ 21 đến 36 lần. (Xem hình F).
Sau khi xoa, toàn thân cảm thấy sảng khoái và ấm áp. Sau đó dùng hai bàn tay áp chặt để bịt kín hai lỗ tai lại. Các ngón tay hướng về phía sau và bợ lấy sau ót. Ngón trỏ đè lên ngón giữa, dùng sức bật ngón trỏ ấn mạnh xuống từ 21 đến 36 lần. Vì hai lỗ tai đã bị bịt kín, nên chúng ta nghe được âm thanh phát xuất như tiếng trống mà các môn sinh bên Ðạo Gia gọi là Minh Thiên Cổ. Âm thanh này giúp cơ thể trì hoãn sự lão hóa, trị được chứng ù tai và chữa được bệnh cao huyết áp.(Hình G).
3.-Xoa Mũi:
Dọc theo sóng mũi có các huyệt đạo Tình Minh, Tiểu Nghinh Hương, Tỷ Thông và huyệt Nghinh Hương (Xem hình H). Phương pháp này có thể chữa được các chứng bệnh về mũi như nghẹt mũi, viêm mũi và chảy mũi v.v...Mỗi ngày chỉ cần xoa mũi hai lần có thể giảm bịnh và đồng thời tinh thần cũng được minh mẫn. Vì những người bị bệnh mũi, tinh thần không được tỉnh táo, hay lừ đừ, trí nhớ kém, không thể tập trung tinh thần nên học bài lâu thuộc. Chỉ cần chữa cho mũi được thông thì tinh thần và trí nhớ sẽ hồi phục lại như xưa. Trước hết chúng ta dùng hai ngón tay giữa cọ xát lại với nhau đến khi nóng lên, rồi đặt hai ngón tay này lên hai bên mũi xoa lên xoa xuống. Xoa lên đến điểm cao nhất là huyệt Tình Minh và thấp nhất là huyệt Nghênh Hương (xem hình I). Cử động từ 21 đến 36 lần. Mỗi lần cử động là kể luôn hai động tác xoa lên và xoa xuống.
4.- Xoa Miệng:
Miệng gồm môi và răng. Môi thì gồm có môi trên và môi dưới. Môi trên có huyệt Hòa Giao và môi dưới có huyệt Thừa Tương (Hình J). Kích động hai huyệt này giúp chúng ta ngừa được các chứng cảm mạo, sưng nướu và chảy máu răng. Thực hành bằng cách đặt môi trên và môi dước ở giữa hai ngón tay trỏ và ngón tay giữa, rồi kéo qua kéo lại theo cử động chiều ngang (Hình K). Mỗi lần xoa như vậy từ 21 đến 36 cử động.
Xong rồi chúng ta cắn răng nghe cọc cọc từ 21 đến 36 lần. Phương pháp này là một cách dưỡng sinh hữu hiệu do các môn sinh Ðạo Gia đã thực hành từ thuở xa xưa để duy trì sức khỏe. Phần đông người ta bắt đầu từ 60 tuổi trở lên, răng cỏ ít nhiều cũng bị lung lay hay bị rụng. Tuy nhiên các vị Ðạo Gia ở Trung Quốc đã thực hành phương pháp cắn răng như thế. Họ coi như là một thứ công phu để giữ cho răng được bền vững, nên có người đã già mà răng vẫn còn đầy đủ và rắn chắc.
5.- Xoa Mặt:
Trên mặt có rất nhiều huyệt đạo liên quan đến nhiều bộ phận trong cơ thể của con người như Thừa Khấp, Tứ Môn, Thần Giao, Quan Giao, Ðịa Thực và Ðại Nghinh (Xem hình L). Xoa mặt không những khích động sự tuần hoàn của máu điều hòa đến tận các mao huyết quản. Do đó dung nhan được hồng hào, tươi nhuận và kéo dài được tuổi thanh xuân.
Ngoài ra nó còn làm cho một số cơ quan khác trong cơ thể vận hành linh hoạt, trợ giúp sức mạnh cho ngũ tạng lục phủ. Ðặt hai bàn tay và các ngón tay lên mặt ở hai bên mũi. Lòng bàn tay hướng vào trong, tiếp xúc với da mặt (Hình M). Xoa lên xoa xuống từ 21 đến 36 lần. Tiếp tục áp dụng phương pháp này trong vài tháng sẽ thấy công hiệu phi thường. Nhất là đối với phụ nữ, các mụn nhọt và tàn nhan sẽ đần dần phai nhạt vì máu huyết đã được lưu thông điều hòa và các tuyến mồ hôi lâu nay bị bế tắc sẽ có cơ hội tái hoạt động và bài tiết các chất cặn bã ra ngoài để da được sạch sẽ và trơn láng.
6.- Xoa Bóp Cổ:
Cổ là cơ quan trung gian nối tiếp giữa não bộ ở đầu và các dây thần kinh cùng huyết mạch đi khắp cơ thể. Khí quản, thực quản, động mạch, tỉnh mạch đều thông thương ngang qua cửa ải này.
Phía sau của cổ có đến 12 kinh mạch, trong đó có Túc Thái Dương Bàng quang kinh, Thủ Thiếu Dương Tam Tiêu kinh, Túc Thiếu Dương Ðảm kinh v.v... điều khiển cử động và sự vận hành các bộ phận trong cơ thể. Ngần ấy công việc đủ biết cổ quan trọng như thế nào. Những học sinh và sinh viên vận dụng trí não quá nhiều, cảm thấy mệt mỏi không muốn đọc sách thêm nữa, có thể xoa bóp ở phía sau cổ, sẽ thấy tinh thần sảng khoái và minh mẫn trở lại. Xoa cổ cũng là một động tác nhằm khích động sự hưng phấn của não bộ, làm cho tinh thần được phấn khởi. Cách xoa là dùng bàn tay trái bóp nhẹ lên phía trước cổ, đặt cổ giữa gọng kềm của ngón tay cái và 4 ngón tay khác còn lại; ngón cái bên trái, còn ngón trỏ và 3 ngón kia thì ở bên mặt (Hình N). Xoa bóp bằng cách kéo từ trên xuống dưới từ 21 đến 36 lần động tác. Sau đó dùng trọn lòng bàn tay mặt ôm sau cổ lên chí ót. Xoa bóp cũng bằng cách kéo từ trên xuống dưới từ 21 đến 36 lần (Hình O).
7.- Xoa Bóp Ngực:
Ngực là cơ quan tiếp cận với các tạng phủ bên trong của thân thể. Tuy nhiên xoa ngực gặp phải khó khăn hơn những động tác khác vì tất cả mọi người đều mặc áo, và người ta không thể tùy tiện cởi áo trước mặt mọi người. Ðối với nam giới, chúng ta có thể dùng hai lòng bàn tay đặt lên ngực trái và ngực phải rồi xoa bóp theo cử động lên xuống. Riêng đối với nữ giới, không cần cởi áo. Chỉ cần đặt hai lòng bàn tay lên ngực và cũng xoa lên xoa xuống, lòng ngực và phổi sẽ cảm thấy thoải mái, kích động sự vận hành của kinh mạch và các huyệt đạo liên quan đến các bộ phân khác được thông thương như bao tử, ruột non, ruột già, gan, thận, tim, phổi v.v... Riêng đối với thai phụ, áp dụng phương pháp này, sau khi sanh sẽ có rất nhiều sữa cho con bú.
8.- Xoa Tay:
Phương pháp xoa tay rất giản dị và rất dễ thực hành; đi, đứng , nằm, ngồi gì đều có thể xoa được nên rất tiện lợi. Trước hết dùng hai lòng bàn tay ma sát lại với nhau đến khi thấy nóng. Rồi dùng lòng bàn tay phải xoa lên lưng bàn tay trái từ 21 đến 36 lần. Sau đó đổi thế, dùng bàn tay trái xoa lên lưng bàn tay phải cũng theo cử động lên xuống, và cũng từ 21 đến 36 lần (Hình P). Xong động tác xoa lưng bàn tay, đến lượt xoa cổ tay. Dùng lòng bàn tay mặt nắm lấy cổ tay trái và xoa bằng cách kéo lên kéo xuống. Sau đó đổi thế dùng bàn tay trái nắm cổ tay mặt và xoa lên xoa xuống. Mỗi bên xoa từ 21 đến 36 lần động tác (Hình Q).
Ðộng tác xoa tay này tuy rất đơn giản, nhưng công hiệu vô cùng. Vì trên tay có những huyệt đạo sau đây: Thủ Thái Âm Phế Kinh (liên quan đến phổi), Thủ Dương Minh Ðại Trường Kinh (liên quan đến ruột già), Thủ Thái Âm Tâm Kinh (Tim), Thủ Thái Dương Tiểu Trường Kinh (ruột non)....Vì chúng ta chỉ học cách thực hành, nên không cần đi sâu vào chi tiết các huyệt đạo phân bố như thế nào. Thực ra các huyệt đạo trên tay đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc bảo trì sức khỏe của con người. Rất tiếc có nhiều người không hề quan tâm đến lối chữa trị thông thường nhưng rất hữu hiệu này mà chỉ cầu cạnh vào thuốc men mà thôi.
9.- Xoa Bóp Thắt Lưng:
Thắt lưng là nơi có rất nhiều huyệt đạo chủ yếu như Luyến Khu, Mệnh Môn, Dương Quang v.v...(Hình R). Hàng ngày cần phải xoa bóp khu vực quan trọng này để cho nó ấm lên, thì máu huyết sẽ lưu thông điều hòa làm cho thận, gan, ruột....đều được khỏe mạnh. Ðặc biệt cách xoa bóp này cũng làm cho cột xương sống linh hoạt, Tủy sống là nơi tạo ra máu huyết cho cơ thể, là tổng bộ của hệ thần kinh. Dùng hai bàn tay xoa với nhau cho thật nóng, úp lòng bàn tay lên hai bên xương sống và ngang thắt lưng, xoa lên xoa xuống cho thắt lưng nóng lên, từ 21 đến 36 động tác. Xoa như vậy thường xuyên mỗi ngày từ hai hoặc ba lần sẽ trị được chứng đau lưng rất hay. Tuy thuốc trị đau lưng nhanh chóng hơn, nhưng nó có tính cách nhất thời. Còn trị đau lưng bằng cách xoa bóp mỗi ngày như vậy bệnh sẽ không tái phát mà còn ngừa được nhiều chứng bệnh khác phát sinh.
10.- Xoa Bóp Chân:
Chân có hai nơi quan trọng cần phải xoa bóp mỗi ngày. Ðó là xương đầu gối và huyệt Túc Tam Lý cách nắp xương đầu gối 25cm. (Hình S) và ở mặt trước của ống quyển (ống chân). Theo y lý Ðông Phương, đầu gối là nơi phát xuất ra các bệnh phong thấp, đau khớp xương và là trung khu gây cho xương bị lão hóa. Ðể phòng ngừa các bệnh tật này thường xảy ra cho người trọng tuổi, hàng ngày chúng ta phải xoa bóp nó thì bảo đảm xương cốt rắn chắc, vững vàng không thua sức lực của thời niên thiếu là bao nhiêu.
Trước hết là xoa bóp xương đầu gối. Phương pháp thực hành là ngồi trên một chiếc ghế thật vững. Ðặt hai lòng bàn tay lên trên hai đầu gối. Tay trái đặt lên trên gối trái, tay phải đặt trên gối phải. Rồi bắt đầu xoa đầu gối theo động tác vòng tròn, cũng từ 21 đến 36 lần.
Sau đó xoa huyệt Túc Tam Lý ở ống chân. Túc Tam Lý có nghĩa là đi bộ ba cây số. Từ đó chúng ta thấy rằng mọi sự đi đứng của con người đều nhờ ở lực của huyệt Túc Tam Lý. Bởi thế, ở Trung Quốc thời xưa, phần đông khi dự định đi bộ đường xa, người ta thường châm cứu huyệt Túc Tam Lý để đi đường ít bị mỏi mệt.
Ngoài ra đối với những người ăn uống khó tiêu hóa, thận suy, hàng ngày năng xoa bóp huyệt đạo này, bảo đảm ăn uống biết ngon và tiêu hóa bình thường trở lại, không còn lo lắng về bệnh bao tử và đường ruột nữa. Ðể thực hành, chúng ta ngồi trên ghế, dùng hai bàn tay xoa huyệt này theo chiều lên xuống, mỗi lần là 36 động tác. Tóm lại, trên đây là mười bí quyết xoa bóp huyệt đạo để thân thể được khỏe mạnh và sống trường thọ. Mỗi ngày chúng ta chỉ cần bỏ ra khoảng 10 đến 15 phút để thực hành phương pháp này liên tục càng lâu ngày, chúng ta sẽ cảm thấy sức khỏe có chiều hướng tiến bộ, ít bệnh tật và yêu đời hơn.
Ðặc biệt đối với người trọng tuổi, vào mùa lạnh, cần quan tâm đến việc xoa bóp huyệt đạo nhiều hơn. Không phải ở trong nhà có máy sưởi, mặc áo ấm là có thể chống lạnh đầy đủ. Chống lạnh bằng cách này, thân thể co rút, không hoạt động dễ gây ra nhiều loại bệnh tật. Ðiều cần yếu chúng ta phải tập thể dục, đi bộ và xoa bóp huyệt đạo thì sự chống lạnh của cơ thể mới có tính cách tự nhiên và còn đề phòng được bệnh tật phát sinh nữa y học.

ĐẠO SĨ VÀ CỌNG CỎ.

ĐẠO SĨ VÀ CỌNG CỎ

ĐẠO SĨ VÀ CỌNG CỎ
Đức Trí Quế Anh


TỰA Ý tưởng, đôi khi như ánh chớp, chợt lóe lên và cần được nắm giữ ngay trước khi chúng loãng vào vùng bất tận. Ý tưởng, như những giấc mơ, khi thức dậy, chỉ còn nhớ được một phần. Nguyên tác Việt ngữ của Đạo Sĩ và Cọng Cỏ được viết xong trong ba tuần, và bản Anh ngữ được hoàn tất trong bốn tuần kế đó. Đạo sĩ và Cọng Cỏ, đến với bạn, chỉ xin như ánh chớp hay như một giấc mơ. MỞ Trong khu rừng yên vắng, có một đạo sĩ sống và đạt đạo. Cảnh vật xung quanh ông là bạn bè của ông. Đôi khi ông ở trong hang núi và cũng có khi ông hòa mình vào không gian. Các loài muông thú và cây cỏ, đều không biết ông từ đâu mà tới. Ngay cả hang núi cũng không biết tại sao ông giấu cuộc sống mình trong đá. Và màu thiên thanh của trời cao thì không còn nhớ ông đã hiện hữu từ khi nào. Lún phún dưới đất là cọng cỏ vui tính. Cuộc sống của nó ngập đầy niềm hoan hỉ cùng sự hào hứng. Nó nhìn thấy những điều mới lạ mỗi ngày và tự hỏi tại sao trên đời lại có nhiều tạo vật đến thế. Khung cảnh trước mắt nó thật đẹp, nhưng cũng thật phức tạp. Khung cảnh ấy như một kiệt tác đảo lộn mà cọng cỏ chưa thể tìm ra cách thưởng thức đúng điệu. Đầu óc của nó nhẹ như tầng khí mỏng, còn thân thể nó thì tươi mát như gió núi. ĐỘNG VẬT VÀ THỰC VẬT Sau một thời gian tu luyện, đạo sĩ rời hang núi để tìm kiếm thức ăn. Đạo sĩ có thói quen ăn chay, do đó ông thường ăn lá rừng và cây cỏ. Một hôm, ông cúi xuống định bức một nhánh cỏ để ăn thì bỗng nghe: - Ấy, ông định làm gì thế, tính giết tôi à? Đạo sĩ nhìn kỹ, thì ra là nhánh cỏ mà ông định ngắt, ông đáp: - Ta đói, ta cần ăn, ta lại không ăn thịt, chỉ ăn cỏ và lá cây. Cọng cỏ hỏi: - Thế tôi đói, tôi ăn ông nhé, được không? - Ngươi đói, ngươi ăn đất, tinh khí trong đất bồi bổ ngươi, sương là nguồn nước của ngươi, - Ông nói đúng. Nhưng ông cũng được tinh khí đất trời bồi bổ ông vậy? - Đúng. Điều khác giữa ta và ngươi là ngươi có thể quang hợp, dùng ánh sáng mặt trời để tự tạo ra thức ăn. Còn ta không quang hợp nên cần thức ăn lấy từ ngoài cơ thề, vả lại ta ăn chay, chỉ ăn thực vật. - Tại sao? – Cọng cỏ thắc mắc. - Ăn thực vật giúp ta hạn chế được dục tính, bớt được phiền não, tốt cho cơ thể ta. Cọng cỏ kết luận: - Như vậy ông là động vật ăn cỏ à? Đạo sĩ cười lớn: - Ngươi dí dỏm lắm, có thể ngươi đúng. Cọng cỏ lại hỏi: - Theo ông động vật có quyền ăn thực vật sao? Đạo sĩ trầm ngâm rồi đáp: - Đó là lẽ tự nhiên. Cọng cỏ không phục: - Như vậy là không phải rồi đó, ông không thấy bất công sao? Thực vật có đòi ăn động vật bao giờ đâu? - Ngươi sai rồi. Một số loài thực vật cũng bẫy động vật để ăn đấy chứ. Các loài thực vật còn lại được nuôi bằng nước, không khí, ánh sáng, và đất. Động vật được nuôi bằng thực vật hay bằng chính động vật. Khi động vật chết trở về cát bụi lại nuôi dưỡng thưc vật. Vậy không phải là động vật và thực vật đều nương nhau mà sinh tồn sao? Đạo sĩ nói xong, bỏ đi. Còn lại một mình, cọng cỏ bấu rễ xuống từng thớ thịt của đất ăn bữa điểm tâm và chiêm nghiệm sự liên hệ giữa thực vật và động vật.

DỤC TÁNH VÀ LÝ TRÍ. Đạo sĩ lững thững trở về, cọng cỏ nhìn ông, hình như ông đã kiếm được thức ăn. - Ông đã ăn loài gì? - Cọng cỏ hỏi nhỏ. - Lá cây, đã nói ta chỉ ăn chay, đồng nghĩa là loài thực vật. - Ông từng nói ăn chay hạn chế tính dục trong người ông. Thế ra ông dùng thực vật để kiềm hãm dục tính? - Có gì là sai? - Sai thì có lẽ không, nhưng dùng ngoại vật để nén nội tâm, vậy nội công ông chắc còn yếu? - Ngươi khoan hãy vội kết luận như vậy. Vạn vật sanh ra đều cần ăn uống hay có sự nuôi dưỡng. Ta không phải là một ngoại lệ. Ăn cũng là tập luyện. Lý trí ta bảo ta ăn thực vật để giúp đỡ cơ thể ta lành mạnh. Từ suy nghĩ đến hành động ta đều nhất quán, không hỗn loạn. Tự lý trí ta đã đè nén ta trước khi ta ăn. Vậy sao bảo ta dùng ngoại vật để tự chủ dục tính? - Thế dục tính có còn trong người ông không? - Dục tính luôn ở trong ta, nhưng dục tính không hẳn là kẻ thù cần phải loại bỏ. Dục tính có thể trở thành bạn đồng hành khi lý trí và dục tính hiểu nhau. - Ông nói lý tưởng và mơ hồ quá! - Khi lý trí hiểu tánh tự nhiên của dục tính, lý trí sẽ hướng dục tính đến thiện tính. Vậy không phải là bạn đồng hành sao? - Nếu là đồng hành, tại sao không phải là dục tính hướng dẫn lý trí? - Cọng cỏ thắc mắc. - Nếu dục tính hướng dẫn lý trí, mọi sự sẽ bị đảo lộn. Có thể ta sẽ tìm giết những vật yếu đuối trong cơn đói. Có thể ngươi sẽ bành trướng khắp quả địa cầu vì ngươi muốn đi đây đi đó. Có thể đêm sẽ không tàn, lửa sẽ không tắt, sức nóng sẽ nung chảy địa cầu hay có thể băng tuyết không ngừng kết tinh. Lúc đó ta và ngươi sẽ không có cơ hội nói chuyện nữa. Lý trí đồng hành với dục tánh là cả hai cùng bổ túc cho nhau. Ta nói “hướng” ở đây là hướng về thiên tính, về sự dung hòa, chứ không phải “hướng” là thi thố quyền lực hay cai trị nhau. Cọng cỏ im lặng. Có lẽ, cọng cỏ đang tìm hiểu về dục tính của mình. Đạo sĩ đã bỏ đi từ lúc nào.

LỬA VÀ BÓNG ĐÊM Hoàng hôn lên, đỏ rực một vùng trời đang chuyển đông. Tiếng chân đạo sĩ tuy nhẹ nhưng đủ thức tỉnh cọng cỏ. Trên vai đạo sĩ vác bó củi khô. Cọng cỏ reo lên: - Ông về rồi, tôi có rất nhiều câu hỏi đặt ra cho ông đây! Đạo sĩ tỏ vẻ bình thản, sắp củi trên một lô đất được che đậy bằng vài cục đá to, nhóm lửa. Bóng đêm dày đặc, chen chúc tránh khỏi hình dáng nhấp nháy chỗ đạo sĩ ngồi. Cọng cỏ, có vẻ như không chịu nổi nữa, hét lên: - Ông chuẩn bị chưa, tôi hỏi đây! Đạo sĩ quăng thêm củi vào đống lửa, giọng trầm trầm: - Ngươi cứ tự nhiên, ta cứ tự nhiên. - Ông đốt lửa làm gì? Ông tu luyện đã lâu, da thịt ông chắc phải chịu được khí lạnh mùa đông? Đạo sĩ mỉm cười: - Ta đốt lửa không phải để sưởi, mà muốn cùng lửa trò chuyện. Cọng cỏ ngạc nhiên: - Ông trò chuyện với tôi chưa đủ sao? Đạo sĩ chậm rãi: - Ngươi là sinh vật đứng một chỗ, lửa thì biến dạng, thay hình và tỏa ra sức nóng. Ta muốn đối thoại với sự biến hình trong bóng đêm. - Lửa là do ông dựng nên, ông muốn đối đáp với cái ông dựng nên? - Tại sao không? Cho dù là ta dựng nên lửa, lửa vẫn khác ta, có tính của lửa. Lửa vừa mang lại sự sống, vừa hủy hoại sự sống. Ta muốn nghiệm quyền lực của lửa. Cọng cỏ tỏ vẻ chưa hiểu: - Ông nghiệm được gì? - Lửa ngăn cản bóng đêm nhưng không xóa được bóng đêm. Cọng cỏ lắc lư: - Tôi không hiểu. - Lửa giống như cơn thịnh nộ, tự ái của chúng sanh được biểu hiện qua hành động tiêu diệt mọi thứ, nhưng kết cuộc những thứ bị tiêu diệt vẫn hồi sanh. Cọng cỏ vẫn có một cái gì lẩn quẩn trong đầu. - Xin ông nói cụ thể hơn. - Cho dù lửa có dữ dằn cách mấy, tiêu hủy nhiều cách mấy, thì rồi vẫn có lúc phải tàn lụi, biến thành tro than, đất bụi. Mầm sống cũng sẽ nảy sinh từ đó. Đến đây, cọng cỏ hiểu ra. Hình dáng bập bùng thỉnh thoảng kêu lên vài tiếng lách tách của lửa đã ru cọng cỏ vào khoảng cô tịch.

TÂM THỨC Khoảng không đổi từ màu đen hắc sang hồng rồi dần dần vàng ánh ở phía chân núi. Lão mặt trời hôm nay dậy trễ. Tia mắt lão chạm vào cọng cỏ làm nó thức giấc. Việc đầu tiên cọng cỏ nghĩ là đốm lửa và đạo sĩ. Nó nhìn qua, thì ra đạo sĩ vẫn ngồi yên như vậy, duy chỉ có đốm lửa là tắt ngấm, để lại vài khóm tro xám. Cọng cỏ định mở miệng hỏi thì đạo sĩ mắt tuy nhắm nhưng đã hỏi trước: - Ngươi dậy rồi à? Cọng cỏ ngạc nhiên: - Sao ông biết? Ông đang ngủ hay đang thức? Ông ngồi đó suốt đêm à? - Ta ngồi đây suốt đêm, ta vừa thức vừa ngủ. - Tại sao? – Cọng cỏ lại ngạc nhiên. - Cơ thể ta trong trạng thái ngủ, nhưng tâm ta luôn tỉnh thức. Cọng cỏ cười một cách lí lắc: - Ông nói giỡn, phải không? - Nếu trong khi ngủ mà đạt được sự tỉnh ở tâm thức thì con người mới tự chủ được cảm xúc của mình. - Đống lửa tắt rồi, ông có định đốt lại không? Đạo sĩ cười: - Lửa cũng phải tắt chứ, cơn nóng giận, buồn bã hay vui sướng cũng phải nguôi, không có gì hiện hữu là kéo dài mãi được. - Thế ông cũng tàn như đống tro kia, phải không? - Ta không phải sanh ra để trường sanh bất tử. Ta chỉ sống cho đúng với cá tánh tự nhiên của ta. - Cá tánh tự nhiên của ông thế nào? - Đem hơi thở mình hòa vào thiên nhiên. Khi nào hơi thở cạn thì thân thể ta sẽ cạn. - Thế tâm thức của ông có cạn không? - Ta chưa biết, bởi vì thân thể ta chưa cạn. - Ông tu luyện, sao không tiên đoán được sự trường tồn của tâm thức. - Ta chỉ nói những gì ta cảm nhận. Ta không muốn khoác lác, nâng cao tâm thức ta. Tu luyện để đạt sự thanh thản trong tâm hồn, hướng con người hòa đồng với vũ trụ. Cọng cỏ đu đưa thân hình như đồng tình. Nắng lên cao, phả hơi ấm khiến cọng cỏ lại bắt đầu thấy buồn ngủ. Từng lời nói của đạo sĩ như tiếng vang vọng đi vào từng sợi gân trên thân cỏ.

TRUYỀN ĐẠT TÂM THỨC Sau một giấc ngủ với lời vọng của đạo sĩ, cọng cỏ thức tỉnh, đạo sĩ vẫn ngồi yên thở đều và nhẹ. Đạo sĩ hỏi cọng cỏ: - Tâm ngươi thức chưa? - Tôi thức rồi, dĩ nhiên tâm phải thức chứ. - Chưa hẳn đâu, nghe ngươi nói vậy có thể tâm ngươi vẫn còn ngủ đấy. - Sao ông nói vậy? - Gọi là tâm thức, nghĩa là ở trạng thái đồng cảm với suy nghĩ, hơi thở và ngay cả dục tính, hành động của mình. Tâm thức thấy được hết những gì mình đã làm và sẽ làm. - Ông nói giống như tâm thức có phép màu vậy đó. - Tại sao không? Chính vạn vật đã là một sự kỳ diệu. - Làm sao tâm thức được giữ mãi? - Tâm thức được trường tồn là do chính vạn vật nuôi dưỡng và gầy sinh nó. Tâm thức ở ngay trong vạn vật. Khi vạn vật còn thì tâm thức còn. - Làm sao có thể giữ mãi tâm thức của vạn vật? - Do sự truyền đạt. Hãy nhìn chính ngươi. Nếu vũ trụ không truyền cho ngươi cách sống và sinh sôi, có lẽ sẽ không có ngươi. Cọng cỏ suy nghĩ hồi lâu rồi hỏi: - Tôi và các loài thực vật có rễ và hạt giống để sinh sôi. Các loài động vật có con cái để truyền đạt, thế núi đá kia có truyền đạt tâm thức không? - Tất nhiên, ta ngồi trong hang đá, nghiệm ra nhiều lẽ sống, đó chẳng phải là do hang đá truyền cho ta sao? Những kẻ khác nhìn vách đá biết được nhiều điều, đó cũng là truyền đạt. - Còn ông, ông sẽ truyền đạt bằng cách nào? - Bằng cách san sẻ tư tưởng và tâm thức của ta cho kẻ khác. - Ông có chọn môn đệ nào chưa? - Tại sao phải chọn? Ta đang ở giữa vạn vật. Tâm thức của ta và của vạn vật hòa vào nhau. Ta và vạn vật đã từng truyền đạt tâm thức cho nhau. Không có thầy và trò trong việc truyền đạt tâm thức. - Thế khi nào tôi mới có thể cùng ông truyền đạt tâm thức? - Không phải ta và ngươi đang truyền đạt tâm thức hay sao? Thế rồi sự yên lặng bao trùm đạo sĩ và cọng cỏ. “ Ta có nhận tâm thức của đạo sĩ không?” Cọng cỏ thầm nghĩ.

BÌNH ĐẲNG VÀ HOÀN HẢO Âm thanh của móng vuốt, bàn chân, hơi thở của hai loài thú rượt đuổi nhau khiến cọng cỏ chú ý, nó nghiêng mình xuống sát đất để tránh khỏi bị giẫm lên. Một con báo đen đang rượt một con nai, nhưng chỉ trong vài khắc sau, con báo đã dứt điểm con nai bằng một cú phóng xa và chính xác. Cọng cỏ rùng mình, gọi đạo sĩ: - Này, ông có thấy gì không? Đạo sĩ từ trong đá bước ra, thản nhiên: - Đó là luật sinh tồn của vạn vật. Như ta từng nói, ta cũng ăn, ngươi cũng ăn, và chúng thì cũng phải ăn. - Tôi hiểu, nhưng tôi cảm thấy trong sự sống không có sự công bằng. - Thì ra ngươi tội nghiệp cho kẻ thù của ngươi. - Kẻ thù của tôi? - Không phải nai ăn cỏ sao? - Tôi biết vậy, nhưng vẫn thấy trong thiên nhiên thiếu sự bình đẳng. - Sự thiếu bình đẳng đã có trong vũ trụ từ xưa đến nay. Tạo hóa sản sinh ra con vật mạnh ăn con vật yếu. - Như vậy ông may mắn hơn tôi rồi. - Tại sao ngươi nói như vậy? - Vì ông mạnh hơn tôi, và chắc chắn nhiều quyền lực hơn tôi. - Đừng nên hạ thấp giá trị của ngươi. Ta và ngươi có những khả năng riêng biệt. Trong cơ thể ngươi và ta, mỗi bộ phận cũng có chức năng riêng biệt, không thứ gì hoàn toàn có quyền lực trên mọi thứ hiện hữu khác. Tất cả đều có chung một quyền được sống. - Ông có vẻ mâu thuẫn quá! Ông nói đi, vũ trụ này hoàn hảo hay không hoàn hảo? Bình đẳnng hay không bình đẳng? - Sự hoàn hảo có thể đồng nghĩa với sự không bình đẳng và sự bình đẳng có thể lại là sự không hoàn hảo. Vũ trụ có cái “hoàn hảo” của vũ trụ, con người có cái “hoàn hảo” của con người, cọng cỏ ngươi có cái “hoàn hảo” của riêng ngươi. - Như vậy, chẳng lẽ tất cả những thứ hoàn hảo gộp chung lại thành ra sự không hoàn hảo? - Có thể lắm – Đạo sĩ gật gù. - Tại sao? – Cọng cỏ nhíu mày. - Khi có quan niệm hoàn hảo, tâm thức bị cuốn theo một con đường duy nhất hướng thiện. Như vậy, nếu có nhiều con đường hướng thiện thì các loài và ngay chính đồng loại sẽ chỉ gặp nhau ở ngã rẽ. - Ông càng nói tôi càng thấy bi quan. - Ngươi không nên bi quan, và không cần bi quan. Các loài có thể chia rẽ sự “hoàn hảo” của riêng mình nhưng chớ coi trọng. Bởi vì ý nghĩa của cuộc sống là một sự “không hoàn hảo.” - Tôi hơi rối. Ông có thể giải thích thêm? - Nếu ta cho là ta hoàn thiện, thì ta sẽ coi thứ khác không giống ta là không hoàn thiện. Vì ta muốn sống trong một vũ trụ hoàn thiện, ta sẽ thay đổi những thứ khác để chúng trở thành hoàn thiện theo ý ta. Như vậy ta đã cố tình làm thay đổi sự sắp xếp của tạo hóa, trong khi cái hoàn thiện của ta chưa chắc là cái hoàn thiện tuyệt đối. - Vậy theo ông thì phải làm sao? - Hãy quý sự hoàn hảo của chính ngươi, của những vật xung quanh ngươi, và của vũ trụ. Phải hiểu rằng mọi vật được xếp ngang nhau. Những thứ không hoàn hảo trong con mắt ngươi chính là để giữ cho sự quân bình của vạn vật. Đó mới là sự hoàn hảo thực. Làn gió nhẹ, ve vuốt thân hình xanh mướt của cọng cỏ, rắc lên đấy vài hạt bụi. Cọng cỏ nghĩ: “Ngọn gió kia, hạt bụi kia, chúng mi có hoàn hảo không?”


BÌNH MINH HAY CHÂN LÝ Bình minh le lói cuối chân trời vuốt lên những giọt sương đêm đọng đầy trên cỏ làm chúng hoảng hốt tan biến mất. Mở mắt, như đã thành một thói quen, cọng cỏ nhìn qua đạo sĩ. Vẫn chỗ ngồi cũ, tư thế cũ, đạo sĩ luôn có vẻ ung dung, không chút lo lắng. - Ông nghĩ sao về bình minh? - Nguồn sống cho vạn vật. Đối với nhân loại, bình minh được ví như chân lý. - Chân lý? Chân lý gì? - Bình minh đem lại sự tươi sáng, nuôi dưỡng muôn loài. Bình minh rọi thẳng vào tận tâm thức, an ủi nỗi khổ đau mà muôn loài phải gánh chịu. Do đó, loài người ví bình minh là chân lý, là sự soi sáng, sự thật và rộng hơn, nguồn thiên nhiên sống đạo. - Thế tâm thức thì sao? Không phải là chân lý sao? - Ta đã nói tâm thức ngay trong vạn vật. Dĩ nhiên tâm thức là chân lý. - Vậy chỉ có một chân lý à? - Chân lý chỉ là ngôn ngữ mà loài người dùng để biểu lộ niềm tin của mình vào điểm tựa cuộc sống. Chân ý có thể chỉ có một hay có thể đếm không hết. - Tại sao? - Giống như tâm thức. Mỗi loài đều có chân lý khác nhau, duy tất cả vạn vật đều chia xẻ một thứ chân lý chung, vũ trụ chân lý. - Ông có vẻ trừu tượng hóa. - Hãy nhìn chung quanh ngươi và ta. Ta và ngươi đều không cùng loài, suy nghĩ sẽ không giống nhau, nhưng không phải chúng ta cùng chia xẻ không khí trong vũ trụ sao? - Thế chân lý của loài người như thế nào? - Đạt hạnh phúc, an lạc trong tư tưởng, tâm thức. - Vậy loài người có đạt được chân lý không? - Có và không. - Tại sao? - Đã có người đạt được chân lý, truyền đạt lại cho nhân loại, nhưng đến nay thế giới loài người vẫn còn chiến tranh. - Vậy loài người tàn bạo hơn cọng cỏ tôi đó. Tôi chưa bao giờ gây sự đánh nhau với ai cả. - Về điều này, ngươi có phần đúng. Nhưng riêng phần ngươi, chớ đừng vì một chút đất mà dành quyền sống với các loại cây cỏ khác nhé. Cọng cỏ cong thân, gật gù. Đạo sĩ vẫn tiếp tục ngồi, cảnh vật ấm hơn, còn cọng cỏ vẫn tiếp tục suy nghĩ về chân lý của loài cỏ.

NGHỆ THUẬT CỦA MỖI LOÀI * Vài chiếc lá thu khô rớt xuống ngay cạnh cọng cỏ. Cọng cỏ nhìn ngang, nhìn dọc, trông chiếc lá thật lạ mắt. - Đẹp thật! – Cọng cỏ hào hứng. Bỗng, một con giun từ đâu bò lên chiếc lá ngo ngoe hít ngửi, bò qua bò lại. - Đúng là đồ giun dế! Không biết thưởng thức nghệ thuật! – Cọng cỏ quát lên. Con giun ngơ ngác nhìn quanh, nhận ra cọng cỏ, con giun cười: - Mi làm gì mà giận dữ thế? - Chiếc lá khô đẹp như thế mà mi bò lên, in dấu ngoằn ngoèo, thật là phản nghệ thuật. - Vậy thế à? Xem ra mi cũng thích thưởng thức nghệ thuật. - Dĩ nhiên, nghệ thuật là cảnh đẹp xung quanh. - Nghệ thuật nằm trong vạn vật, có phải không? - Phải thì sao? - Như vậy mi cũng là nghệ thuật? - Tất nhiên. - Thế tại sao ta thì là phản nghệ thuật? - Mi là loài giun dế, mi biết gì về nghệ thuật. - Mi không phải là ta, sao dám khẳng định ta không có nghệ thuật? - Nghệ thuật của mi là gì? - Mi nói trước đi, nghệ thuật của cọng cỏ mi là gì? - Là cảm xúc, rung động trước một vật gì, một cảnh gì. Ta nhìn thấy chiếc lá khô, cảm xúc vì hình hài của chiếc lá, rung động vì màu sắc của chiếc lá, ta cho đó là nghệ thuật. - Mi có cảm xúc của mi, ta có cách xúc cảm của ta. Ta nằm trên chiếc lá, thưởng thức mùi thơm của lá, cảm nhận được sự mềm mại của lá, và những đường gân li ti trên lá kia mới chính là nghệ thuật. - Nhưng mi nằm trên chiếc lá thì còn gì là nghệ thuật của chiếc lá nữa. - Tại sao? - Vì mi xấu xí. Con giun cười lớn: - Đối với ta, vật nào có thân hình căng tròn như ta, cơ thể uốn éo như ta mới là tuyệt đẹp. Còn mi, mi xanh le xanh lét và gầy nhom thế kia, mới đúng là xấu xí. Hơn nữa ta cho rằng chiếc lá khô có ta nằm ở trên lại càng nghệ thuật hơn. Cọng cỏ còn giận, nhưng im lặng, nó nhìn con giun tiếp tục ngo ngoe hít ngửi, còn nó thì tiếp tục nhìn ngang, nhìn dọc.

NGÔN NGỮ CỦA MỖI LOÀI Cái lành lạnh ban mai tỏa khắp. Cọng cỏ mở mắt, hít một hơi, thưởng thức mùi vị đất trời hòa trộn. Hơi lạnh từ từ tan đi, cũng là lúc cành lá sột soạt. Cọng cỏ nhìn lên, thấp thoáng đằng kia một bóng người và một bóng vật đang tiến đến gần. - Có ai đang đến – Cọng cỏ nói khẽ. Đạo sĩ tuy ngồi im như pho tượng, nhưng hình như ông đã thấy được tất cả chung quanh. - Một cô con gái đang đi cùng một con chó. - Trong khu rừng tĩnh vắng này, tôi tưởng ông là loài người duy nhất? Đạo sĩ cười: - Nhưng ta thì không nghĩ ngươi là cọng cỏ duy nhất. - Cô ta định vào đây tu hay sao? - Thế ngươi cũng ở đây, ngươi có tu chưa? - Ông xem kìa, con chó và cô ta rất hiểu nhau, tôi chưa thấy họ bất đồng ý kiến, mặc dù họ khác loài. - Chẳng có gì lạ cả. Tâm thức họ đang làm việc đời thường ấy. - Nghĩa là sao? - Họ trao đổi bằng chính tâm, thức, tịnh, động, và ngộ. Tuy không cùng loài, nhưng khi tâm “thức” thì tâm của loài người sẽ cùng trò chuyện với tâm loài khác, cũng giống như ta và ngươi, hay ngươi và con giun. - Thế thì tâm tôi luôn “thức” đấy nhé. - Hãy khoan kiêu ngạo. Ngươi còn phải “thức” nhiều hơn nữa. - Này nhé, cọng cỏ tôi có cái “thức” của tôi, ông có cái “thức” của ông, cô gái và con chó cũng có cái “thức” riêng của họ, phải không? – Cọng cỏ giả cách lập luận của đạo sĩ một cách tinh nghịch. - Ngươi tự học lấy, cần gì phải nhái ta? Cô gái tới gần, cất tiếng hỏi rụt rè: - Thưa ông, tôi cảm thấy bị lạc đường, xin ông chỉ cho lối ra. - Lạc đường thì không, bởi vì chỗ nào cô cũng có thể dung thân, chỗ nào cũng là nhà của cô, nhưng nếu cô muốn ra khỏi khu rừng này thì phải mất độ vài ngày. Cô gái mệt mỏi bỏ hành trang trên vai xuống, con chó cũng ngoan ngoãn nằm xuống, dường như nó cũng mệt. Cô gái chỉ một nơi bằng phẳng và kín gió: - Tôi có thể dựng lều ở đây được chứ? - Tất cả khu rừng này thuộc về cô. Cô gái bắt đầu dựng lều, con chó chạy quanh giúp đỡ vài thao tác nhỏ. Cọng cỏ chăm chú theo dõi, nó chưa lên tiếng vội, nó còn đang phân vân, sự hiện diện của cô gái và con chó có phá đi không khí “đạo sĩ và cọng cỏ” mà chính nó không bao giờ muốn mất? Cọng cỏ mơ màng, “Không biết cô gái và con chó có thể hiểu được ngôn ngữ của loài cỏ không nhỉ?”


ĐẠO VÀ QUYỀN LỰC Ánh nắng rực rỡ nhưng dịu ấm như muốn chào đón hai sinh vật mới trong khu tĩnh mịch này. Cô gái và con chó đã thức sau môt giấc ngủ mệt mỏi. Từng cử chỉ của cô gái và con chó được cọng cỏ chú ý và nó nhất quyết theo dõi mọi diễn tiến mà theo nó, lạ lùng và kỳ bí. Cô gái hỏi đạo sĩ: - Ông ngồi thiền đã bao lâu rồi? - Ta không thể nhớ, chỉ biết ta ngồi từ lúc mặt trời mọc đến lúc mặt trời mọc. - Ông nhắm mắt như thế, ông có thấy gì không? - Cách nhắm mắt của kẻ khác có thể là cách mở mắt của ta. Ta có thể thấy nắng chào đón muôn loài, thấy mây và gió tình tự, thấy lá cây trò chuyện với nhau, thấy những con vật đi kiếm ăn, thấy trăng đàm đạo với các vì sao, và nhiều điều khác. - Ông triết lý lắm, ông đạo gì? - Vạn vật ở xung quanh ta là nguồn sống của ta, có thể nói ta theo đạo thiên nhiên. - Đạo là gì đối với ông? - Tìm hiểu tâm thức, bản tính của muôn loài. - Vậy theo ông trong muôn loài có bao nhiêu đạo? - Nhiều nhưng cùng ở trong một. - Tại sao? - Cây có đạo cây, ta có đạo ta, cô có đạo cô, không khí có đạo không khí, vân vân. Nhưng chúng đều sống trong vũ trụ. - Vậy đạo nào có quyền năng nhất, có phải đạo vũ trụ không? Theo ông nói, tất cả các loài đều nằm trong vũ trụ. - Các loài nằm trong vũ trụ, nhưng đạo của vũ trụ không hẳn là tối cao. Nếu không có các loài làm sao hình thành vũ trụ được. - Theo ông, vũ trụ không tự có sao? Và có trước khi có các loài và sự sống? - Có thể lắm, nhưng đó chỉ là cách nói tương đối. - Cách nói tuyệt đối thì thế nào? - Ta chưa biết, chỉ biết rằng vũ trụ sanh ra vạn vật, vạn vật cũng có thể sanh ra vũ trụ. Ở trong vạn vật có vũ trụ. - Phải có một khởi điểm chứ? - Tất cả các điểm đều là khởi điểm và là dứt điểm. - Theo ông chẳng có quyền lực nào tối cao hay sao? - Quyền lực của vũ trụ là tạo ra sự cân bằng cho các loài, các vật. Quyền lực của các loài là tạo ra nguồn cảm thông lẫn nhau cũng như giữa các loài và vũ trụ. Các quyền lực khác nhau, không thể so sánh được. Quyền lực mà loài kiến cho là tối cao chưa hẳn là tối cao của loài người. Cái tối cao trong sự hiểu biết của loài người chưa chắc là sự tối cao đích thực. - Thế theo ông hành đạo là sao? - Các loài sống theo chức năng của mình, dùng quyền lực của mình để hỗ trợ các loài khác. Ta nhấn mạnh, chỉ hỗ trợ mà không làm chủ. Các loài phải tự biết lúc nên đến, lúc nên đi, như bình minh và hoàng hôn. Các loài phải tự biết vị trí của mình, khi nào nên phô trương đạo của mình, khi nào thì không phải lúc, như mặt trăng và mặt trời, ánh sáng và bóng tối. Đạo của muôn loài luôn di chuyển theo vòng tròn. Cọng cỏ liếc nhìn con chó, nó đang nằm im, đầu nghểnh cao, lim dim cặp mắt. Cô gái thì cúi đầu, nhìn chăm chăm không chớp mắt vào chính cọng cỏ.

SỐNG VÀ CHẾT Đêm chầm chậm đến. Đạo sĩ, cô gái và con chó quây quần bên đống lửa. Sao đêm nay có vẻ nhiều hơn mọi đêm. Cọng cỏ vẫn ráng thức để theo dõi họ. Cô gái mở đầu: - Ông có bao giờ chuẩn bị cho cái chết đến không? - Chuẩn bị làm gì nếu như sống chết chỉ là một? - Nhưng ông không nghĩ rằng chết là sự chấm dứt hoạt động của thân xác? - Nhưng con người còn có linh hồn. - Ông muốn nói linh hồn sẽ về trú ngụ ở một trong hai nơi thiên đàng hay địa ngục? - Thiên đàng khác địa ngục ra sao? - Thiên đàng là nơi tâm hồn thanh thản, còn địa ngục là nơi tâm hồn bị giày vò, bức rức. - Nếu như vậy thì quả là ta đang ở thiên đàng, chưa cần đợi đến lúc thân xác trở thành vô hồn. - Ông không coi trọng sống chết à? - Ta đã sống chết nhiều lần rồi, có gì mà sợ. - Ông không đùa chứ? - Mỗi ngày, ta ngồi đây ngủ giữa vũ trụ, tâm hồn chẳng vướng bận gì, coi như ta đã chết. Lúc mở mắt thấy vật vật trong lành hồi sanh, không phải là ta sống lại sao? - Nhưng vẫn có một cái chết cuối cùng chứ, ông đâu thể trường sanh bất tử. - Khi nào là cái chết cuối cùng? - Hơi thở ông ngừng, tim ông đứng yên, và bộ não ông thôi hoạt động. - Ngừng ở xác này nhưng chưa ngừng trong không gian. - Sau khi rời khỏi xác, linh hồn ông đi về đâu? - Thiên đàng, địa ngục, quá khứ, hiện tại, tương lai, vô hình hay hữu hình đều là ở đây, tại sao phải đi nơi khác. - Nói thế, ông đã ở địa ngục rồi à? - Đúng vậy. Khi ta đói, bụng ta cồn cào khó chịu. Khi ta no, đầu óc ta mê ngủ không sáng suốt nữa. Những thứ ấy là nguồn gốc của địa ngục. - Thiên đàng địa ngục ở trong ông à? - Ở trong ta, ở trong ngươi, ở trong mọi loài. - Thế bây giờ ông đang sống hay đang chết? - Ta đã nói, sống chết chỉ là một, cho nên ngươi bảo ta sống thì là ta đang sống, mà bảo ta chết thì là như thế. Ánh lửa nhỏ dần, chìm hẳn. Cọng cỏ ngáp dài, nó rũ người, thử chết xem sao.


PHÁT MINH HAY TÌM THẤY Mưa rơi trong cơn gió chiều vẫn không làm đạo sĩ cử động. Cô gái và con chó ngồi trong lều, phía trên đã được cô gái cẩn thận chăng một tấm bạt lớn. Còn cọng cỏ đong đưa, nhún nhảy, cảm giác lâng lâng như đang say, nó rất thích mưa. - Sao ông không trú mưa, ông không sợ bị cảm lạnh à? - Mưa thì cũng là ta, tại sao ta phải trú ta? - Thiên nhiên đạo có phải do ông sáng tạo ra không? - Ta chưa sáng tạo gì cả, tất thảy đều đã có sẵn. - Vậy thì các triết thuyết, phát minh khoa học không phải đã từng được sáng tạo sao? - Tưởng là sáng tạo, thực chất chỉ là tìm thấy. Trước khi loài người tìm ra châu Mỹ, thì châu Mỹ đã ở sẵn đó rồi. Trước khi người ta tìm ra một triết lý thì triết lý đó đã tồn tại. - Thế tại sao người đời lại tôn họ lên hàng vĩ nhân nếu họ chỉ là những người tìm thấy? - Không phải ai, loài nào cũng có thể tìm thấy. Chỉ có những người có duyên mới có thể tìm thấy những điều mà người khác không nhìn ra. Những người này rất xứng đáng được gọi là vĩ nhân. - Vậy ông cũng đã từng tìm thấy thiên nhiên đạo, ông có đáng được gọi là vĩ nhân không? - Vĩ nhân hay tiểu nhân là do người đời đề xướng, cô muốn gọi ta là gì cũng được, ta chưa nghĩ tới. Vả lại, ta sống trong thiên nhiên, nơi đây những từ ngữ vĩ nhân hay phát minh chẳng mang ý nghĩa đặc biệt nào cả. - Ông không nghĩ như vậy là ích kỷ sao? Người đời cần ông, sao ông lại trốn tránh, cô độc một mình trong khu rừng vắng không một bóng người này? - Ta còn chưa tìm thấy hết những điều ta muốn tìm. Vả lại ở đây, ta vẫn có thể truyền đạt sự biết của ta cho những nơi cần, người đời chưa chắc đã cần ta. - Tại sao? - Những gì ta biết nằm trong vạn vật, trong từng loài, phải tự nghiệm lấy thôi, không cần đến ta. Còn cô, cô “tìm thấy” chốn này, thế cô có truyền cho người khác không? - Nếu tôi thấy là cần thiết. - Nên nhớ, khám phá là mầm mống của sự hủy diệt. Mưa mỗi lúc một lớn, ngôn ngữ của đạo sĩ và cô gái tan loãng trong mưa, tạt vào thân cọng cỏ mát rượi. Đạo sĩ ngồi giữa vũng nước, mặt không chút biểu lộ trong khi cô gái chăm chú nhìn về hướng đạo sĩ. “Cô ta đamg tìm kiếm cái gì nhỉ? Và mình thì đã tìm thấy được gì nhỉ?” Cọng cỏ nghĩ thầm.

Ý THỨC VÀ TIỀM THỨC Cọng cỏ hôm nay dậy sớm. Nó muốn tiếp tục theo dõi cô gái và con chó. Cô gái ngủ quên ở ngoài trời, lưng dựa vào vách núi. Khuôn mặt cô thoáng nét mệt nhọc và hoảng hốt. Con chó cắn nhẹ vào tay cô gái lúc lắc làm cô gái giật mình choàng tỉnh. Đạo sĩ vẫn ngồi ở chỗ cũ, điềm tĩnh hỏi: - Có phải cô vừa trải qua một giấc mộng khó hiểu? - Sao ông biết? - Chuyện ấy vẫn thường xảy ra. - Vậy ông có hay mơ không? - Ta luôn luôn mơ. - Ông thấy gì trong giấc mơ? - Rất nhiều điều. Ta thấy và gặp những gì mà khi ý thức, ta không thể gặp được. - Tôi vừa có một giấc mơ thật kinh khủng. Trong mơ tôi cũng ngồi ở chỗ này. Có hai người mặt mũi quái đản đi về phía tôi. Tôi cảm thấy sợ hãi nên nấp vào hang núi. Họ cũng vào hang núi. Tôi hốt hoảng vụt chạy trong bóng tối và rớt xuống một vực sâu. Đúng lúc đó thì tôi giật mình thức giấc. Đạo sĩ gật gù: - Sâu trong hang núi, quả có một vực thẳm. Cô gái vô cùng ngạc nhiên: - Tại sao tôi có thể mơ thấy những điều có thật mà chính tôi chưa biết tới? - Đó là do tiềm thức của cô hoạt động. - Nghĩa là…? - Tâm thức có ý thức và tiềm thức luôn luân phiên hoạt động. Khi ý thức nghỉ ngơi là lúc tiềm thức làm việc. Ngay trong lúc ngủ, đầu óc cô vẫn liên tục “thức.” - Khi tôi mở mắt thì tôi vẫn ngồi đây, vậy tôi có thật sự chạy vào hang núi không? - Phần xác cô ngồi đây, phần hồn của cô thì chạy vào hang núi. - Nói như vậy, lúc đó tôi đang chết à? - Sống chết chỉ là ngôn ngữ mà thôi, không phải là điều quan trọng. - Ý thức và tiềm thức khác nhau ra sao? - Ý thức thuộc về thế giới hữu hình, tiềm thức thuộc về thế giới vô hình đối với con người. - Tôi có thể kiểm soát được tiềm thức của tôi không? - Muôn loài dùng ý thức đề kiểm soát hành động trong thế giới hữu hình. Tất nhiên cũng có thể dùng tiềm thức để kiểm soát hành động trong thế giới vô hình. - Bằng cách nào? - Những gì cô có thể làm bằng ý thức thì cũng có thể làm bằng tiềm thức. Cô có thể điều khiển các diễn tiến trong giấc mơ nếu muốn, hoặc nếu cô không thích giấc mơ ấy, cô có quyền không mơ nữa. Trong giấc mơ, cô sẽ thấy những gì không thể thấy hoặc nghe bằng ý thức, thậm chí có thể dùng tiềm thức để học hỏi. - Ông học được gì bằng tiềm thức? - Tiềm thức đưa ta xuống vực sâu, lên trời cao, len vào những nghách đá, lặn ngụp giữa lòng suối. Tiềm thức đưa ta gặp những hiện hữu không thuộc thế giới hữu hình của loài người. - Theo ông, loài vật, loài cây cỏ, suối nước hang đá xung quanh ông có mơ không? - Loài người chỉ là một loài bé nhỏ trong muôn loài vật của vũ trụ. Nếu loài người có giấc mơ các loài khác cũng sẽ mơ. Cọng cỏ nghe đến đây, bật cười khoái chí, nó muốn hét lên: “Cô gái ơi! Ta vẫn thường mơ mộng hàng đêm đấy nhé.”

SỰ TIẾN HÓA Đêm dần xuống, cô gái đang chuẩn bị bữa ăn tối bằng những vật liệu mang theo trong hành trang mà đối với cọng cỏ rất là “cấp tiến.” Chỉ cần bấm “tách” một cái là cô gái đã có ngay lửa ở trong tay. Chẳng thấy cô gái săn bắn hay thu lượm gì mà giờ cọng cỏ đã ngửi thấy mùi thức ăn thơm phức. Ngay cả những mùi ấy cũng kỳ lạ, có lẽ đạo sĩ chưa từng ăn bao giờ nên cọng cỏ chưa có dịp ngửi thấy. - Ông ăn chay phải không? – Cô gái hỏi đạo sĩ. - Đúng vậy. - Món súp của tôi chỉ có mùi thịt chứ không có thịt, ông dùng chứ? - Tất nhiên, đối với ta thì món súp của cô chẳng có mùi thịt gì cả vì ta đã quên mất mùi thịt ra làm sao. - Ông có nghĩ rằng sống mãi ở đây ông sẽ đi ngược lại với sự tiến hóa? - Sự tiến hóa nằm ở ngay trong đầu của mỗi vật, sống ở đâu cũng thế thôi. Những kỹ thuật xã hội con người đang có, chỉ cần tập trung suy nghĩ, ta có thể nghiệm ra hết cả. - Ông muốn nói đến những kỹ thuật tân tiến, như hệ thống liên mạng? - Hệ thống liên mạng ấy lấy căn bản từ hệ thống liên mạng trong thiên nhiên, và chỉ là một phần nhỏ của sự thông tin tư tưởng. Ngay cả ở đây cũng vẫn có hệ thống liên mạng. - Xin ông giải thích thêm. - Khi nhìn lên trời hay nhìn vào sinh hoạt của các loài xung quanh, ta có thể đoán biết được thời tiết hay những sự biến động. Đối với hệ thống liên mạng mà xã hội loài người đang xử dụng, để chuyển một thông tin đi nửa vòng trái đất hay xa hơn nữa, phải dùng đến những làn sóng vô hình trong không gian. Và nếu như đã có những làn sóng vô hình thì việc thông tin trực tiếp bằng ý nghĩ thay vì lời nói, hành động, hình ảnh hay chữ viết chỉ là sự khác nhau giữa các làn sóng mà thôi. - Ông có nghĩ khi đó, con người đạt đến đỉnh tối cao của trí tuệ hay không? Đạo sĩ lắc đầu: - Loài người có thể cho một điểm nào đó là tối cao, nhưng đấy chỉ là sự tương đối và tạm thời vì kiến thức của con người có giới hạn. - Theo ông thì sự thành đạt của xã hội loài người hiện nay sẽ đi tới đâu? - Như ta đã nói, phát minh là mầm mống của sự hủy diệt. Sự tiến hóa đã đi được rất nhiều vòng thì nền văn minh hiện nay không thể nào đi lệch ra ngoài quỹ đạo ấy. Khi đã đạt đến mức quá mạnh, quá cao thì sẽ phải giảm xuống, như ngọn núi kia, có triền dốc lên thì phải có triền dốc xuống. Khi đã quá rực rỡ thì sẽ phải lu mờ, như mặt trời khi lặn khi mọc. Khi đã quá bành trướng thì phải có lúc thu hẹp lại, như mặt trăng có khuyết có đầy. - Có nghĩa là không có sự gì tồn tại mãi mãi? Đạo sĩ cười: - Sở dĩ đặt vấn đề trường tồn là vì sự ham muốn thống trị. Thực chất chỉ có một sự tồn tại và sự tồn tại ấy biến chuyển hình dạng, vị trí, và có thể “chuyển ngôi.” Nên nhớ rằng trước khi con người bành trướng trên quả đất này, thì nó đã từng là hành tinh của loài khủng long, thì chẳng có gì lạ nếu như một loài khác thay thế con người, và con người lại thay thế một loài nào đó ở một nơi nào đó. - Nói như ông thì không có gì đáng ngạc nhiên hay nghi ngờ về các nền văn minh xuất hiện trước chúng ta hàng tỷ năm? - Tất nhiên, cô nhìn thấy trăng khuyết không có nghĩa là trăng không tròn. Cô nhìn thấy mặt trời chói sáng hơn các vì sao, không có nghĩa là các vì sao bé nhỏ và kém chiếu sáng. Chúng ta văn minh hơn mười năm hay trăm năm trước không có nghĩa là văn minh hơn triệu năm hay tỷ năm trước. - Thế ra con người chỉ đi loanh quanh? - Không riêng con người, mà mọi vật đều đi loanh quanh giữa tiến và hóa. Cọng cỏ chợt rùng mình, có thể nào nó sẽ “tiến hóa” thành đạo sĩ và đạo sĩ thành cọng cỏ?

VĂN MINH CỦA CÁC PHƯƠNG Ngoi lên từ sự tĩnh lặng phương Đông, sợi nắng ấm chia xẻ niềm khát khao của một ngày mới với khoảng không. Cô gái và con chó tỉnh giấc, nhìn về vòm ửng hồng xóa tan cụm mây đen với một tâm trạng sảng khoái. Thấp hơn, đạo sĩ vẫn ngồi, mỉm cười với cảnh vật. Chỉ riêng cọng cỏ không một chút rời cô gái, con chó và đạo sĩ. Cô gái sau một thoáng hạnh phúc tự tại, quay sang hỏi đạo sĩ: - Phương Đông có phải là hào quang của văn minh con người không? Đạo sĩ quay nhìn cô gái: - Tại sao cô nghĩ vậy? - Không phải mặt trời mọc ở phương Đông và lặn ở phương Tây sao? - Cô gọi phương mặt trời mọc là phương Đông nên kết luận văn minh nhân loại sẽ rọi sáng ở phương Đông? - Phải. - Vậy nếu tôi gọi phương mặt trời mọc là phương Tây, vậy thì câu trả lời về văn minh nhân loại sẽ khác đi? Cô gái suy nghĩ một lát, nói: - Nhưng ông hãy nhìn xem, Tây phương đang hướng về Đông phương và có nhiều giả thuyết cho rằng văn minh Đông phương đang trỗi dậy. Vả lại văn minh Tây phương không còn hưng thịnh như trước. - Văn minh Tây phương và Đông phương đều có lúc hưng thịnh và lúc suy đồi. Cái gì lên nhanh sẽ xuống nhanh, lên chậm xuống chậm. Nhân loại đã từng có những nền văn minh cực thịnh như La Hy và Trung Ấn, nhưng cũng không tồn tại với thời gian. - Ông có nghĩ Đông phương là một ngoại lệ? - Ta không nghĩ vậy. Tất cả các nền văn minh đều chỉ rực rỡ trong một thời gian. Đông Tây sẽ tiếp nối và ảnh hưởng lẫn nhau. Thật ra về ý nghĩa, hai nền văn minh ấy đều giống nhau, chỉ có hình thức khác nhau, tạo nên sự riêng biệt của Đông và Tây. - Ông có thấy là đối với thế giới Tây phương, Đông phương vẫn còn là một sự xa lạ, đặc biệt về vấn đề tâm linh và triết học. - Không có gì xa lạ cả, có thể vì người Tây phương chưa tìm hiểu hết văn hóa Đông phương. Thật ra, ngay cả văn minh Tây phương vẫn chưa được tìm hiểu cặn kẽ và thâm sâu. Con người chỉ biết đến Đông Tây, vậy còn Nam Bắc thì sao? Ta không biết đến không có nghĩa là chúng không tồn tại. - Có giả thuyết về sự xuất hiện của một nền văn minh mới ở phương Đông, ông nghĩ sao? - Xuất hiện từ Đông, rồi cũng sẽ xuất hiện từ Tây, từ Nam hay là từ Bắc, không có gì lạ cả. Hơn nữa, phương Đông của nơi này lại là phương Tây của nơi kia, nên cách nói Đông Tây vẫn chỉ là tương đối. - Sự xuất hiện của một nền văn minh mới có giúp ích gì cho con người hay không? - Cô gái trầm ngâm. - Khi con người bế tắt trong văn minh của họ, họ sẽ đi tìm giải thoát ở một phương khác xa lạ với họ. Sự xuất hiện của một nền văn minh mới là điều nhân loại mong muốn. Nhưng ta không nghĩ con người cần một nền văn minh mới. Cái quan trọng là bớt đi hình thức của một nền văn minh đang có, điều này sẽ giúp con người nhiều hơn. - Vậy theo ông, văn minh con người sẽ đi về đâu? - Đối với con người hiện đại, “văn minh” được xem đồng nghĩa với những giá trị vật chất siêu việt. Những giá trị ấy không thể tồn tại lâu. Đã đến lúc con người cần trở lại sự cân bằng vũ trụ và nhân sinh. Giá trị thiên nhiên và đời sống tinh thần là quan trọng. Ta không thể định chính xác phương của văn minh con người được vì văn minh chính nó không có điểm chấm dứt. Cô gái trầm tư, suy nghĩ. Cọng cỏ cũng chìm vào sự suy tư, “Văn minh loài cỏ có bị tàn lụy một ngày nào đó không nhỉ?”

HÌNH THỨC VÀ NỘI DUNG Trời chuyển dần sang màu hồng xám, bắt đầu buổi chiều tối. Cô gái cùng với con chó chuẩn bị thu xếp hành trang để sáng mai lên đường rời khỏi khu rừng. Đạo sĩ, với sự tĩnh lặng hàng ngày, vẫn ngồi chuyện trò cùng vạn vật. Cô gái bất chợt nhìn sang đạo sĩ: - Ông có nghĩ rằng xã hội con người chứa quá nhiều hình thức không? - Cô cho thế nào là hình thức? - Hình thức như các lễ nghi tôn giáo, văn hóa và ngay trong cả xã hội. - Thế cô chống lại hình thức? - Tôi không biết. Nhưng tôi thích con người hướng đến nội dung nhiều hơn. - Thế cô cho thế nào là nội dung? - Trung thực với suy nghĩ của mình. - Vậy người coi trọng hình thức là không trung thực? - Không hẳn, nhưng hình thức là một trong những yếu tố nhốt chặt tư tưởng con người. - Ở một góc độ nào đó, – Đạo sĩ gật gù – ta đồng ý với cô, nhưng đôi khi cũng còn tùy vào hoàn cảnh để xét đoán hình thức và nội dung. - Xin ông giải thích thêm cho rõ. - Này nhé, hình thức sẽ trở nên yếu tố tích cực nếu người trọng hình thức dùng hình thức làm điều thiện. Lấy ví dụ, trong xã hội, con người dùng lễ nghĩa đối xử tốt với nhau thì đấy là điều tốt. Đi vào tâm linh, khi một tu sĩ cầu nguyện, chấp tay niệm một đấng nào đó, xin cho một người nào đó đang lâm cảnh khổ sở hiểm nguy, thì đó cũng là một điều tốt. Không nên chê trách họ. Nhưng nếu vị tu sĩ ấy chỉ biết sáng đêm cầu nguyện, quên đi nguồn gốc của việc cầu nguyện, quên đi cái tinh túy trong tư tưởng mình, thì xem như hình thức cầu nguyện sẽ rất dư thừa. - Ông nghĩ thế nào khi con người biết được sự khác nhau của hình thức và nội dung nhưng vẫn duy trì? - Như ta đã nói, nếu một người tâm thiện nhưng thích hình thức rườm rà thì người ấy vẫn còn là người tốt. Còn nếu ngược lại, người không hình thức nhưng có ý đồ nội dung xấu xa sẽ vẫn có khả năng hại đến người khác. - Theo ông thì nội dung quan trọng như thế nào? - Nội dung của một vấn đề chính là nền tảng của vấn đề ấy. Một con người được coi là sâu sắc khi biết và hiểu tường tận từng hành động mình đang làm. Xa hơn, người ấy sẽ có mục đích trong tư tưởng, và việc mà họ muốn làm sẽ ảnh hưởng đến mọi vật. - Thế còn ông, ông ngồi thiền như vậy không phải là hình thức sao? - Thiền sẽ là hình thức nếu người ngồi thiền không phóng thích tâm trí của mình. Còn ta, ta ngồi trong trạng thái tịnh, trí tuệ ta thanh thản sáng suốt. Tâm ta bay bổng nhàn nhã. Ta tịnh ngay cả khi ăn và ngủ. Vậy không thể gọi ấy là hình thức. - Thế ông nghĩ người đời xưng hô lễ nghĩa dài dòng, để ý từng hành động cử chỉ lẫn nhau để định giá trị con người thì sao? - Hễ có ngôn ngữ là có hình thức. Nếu ta không cần hình thức thì ta cũng không cần ngôn ngữ mà vẫn thông đạt tư tưởng. Xã hội con người đa dạng và phức tạp, người trọng hình thức sẽ bất đồng với người trọng nội dung và ngược lại. Tuy nhiên, giá trị con người không thể đánh giá đơn giản qua vài lời nói hay hành động được. Chỉ có thể tự mình dùng tâm và trí để suy xét hành động của mình. Giá trị mỗi con người không thể diễn tả bằng ngôn ngữ được. - Vậy theo ông, hình thức và nội dung có cần thiết không? - Cần và không cần. - Tại sao? - Hình thức và nội dung nên được dùng đúng hoàn cảnh, và tùy theo trường hợp. Không coi thường hay coi trọng cả nội dung lẫn hình thức thì con người sẽ tiến xa. Cô gái trầm lặng suy nghĩ. Cọng cỏ cũng chìm vào những suy nghĩ lan man, “Không biết chính ta có hình thức không?”

TU VÀ ĐẠO Hơi sương lóng lánh trên các cành lá trong buổi sáng mai, lúc cô gái và con chó chuẩn bị lên đường để trở về nơi họ muốn. Cô gái tỏ ra vương vấn với cảnh vật yên tịnh, nhưng con chó thì mừng rỡ cuống lên, có lẽ nó rất nhớ nhà. Đạo sĩ vẫn ngồi, còn cọng cỏ thì không ngủ được cả đêm qua. Nó thèm nghe cô gái và đạo sĩ đàm đạo; nó muốn tìm hiểu thêm về đời sống loài người. Nhưng mặt khác nó lại muốn là người “độc quyền” tranh luận với đạo sĩ. - Tôi sắp sửa đi, nhưng có vài điều muốn chia xẻ cùng ông. - Xin cô tự nhiên. - Tôi nhận thấy ông và các tu sĩ ở chỗ tôi sống khác nhau quá xa! - Tại sao? - Chốn tu của họ tiện nghi và đẹp quá, ăn uống có người chăm lo, cuộc sống luôn được nhiều người tôn sùng. Còn ông, ông phải sống tự túc và làm bạn với cây cỏ. - Thế cô cho ta là thiếu thốn? - Tôi cho là ông mới đích thực là kẻ tu hành, sống xa rời vật chất, dục vọng để hòa mình vào thiên nhiên. - Cô quá khen. Ta luôn nghĩ ta là người giàu có, dinh thự của ta là cả khu rừng này, thức ăn ở đây quá dư thừa. Cây cỏ cũng dịu dàng trìu mến ta. - Nếu tất cả tu sĩ đều lãnh hội đạo như ông, tôi chắc sẽ không phải đi lạc vào khu rừng này. - Cô chớ nên bi quan, sẽ có rất nhiều tu sĩ đạt đạo, vả lại có nhiều người đạt đạo chưa hẳn phải là tu sĩ. Và có khi, những người đạt đạo lại ít được người đời biết đến. - Nghe ông nói vậy, tôi cảm thấy còn chút tin tưởng vào xã hội mà tôi đang sống. - Hãy tin tưởng vào chính dòng tư tưởng đang chảy trong người cô và hãy nhìn chính tư tưởng của cô như là xã hội, là đạo. Sẽ có những lúc cô bị dằn vặt, khủng hoảng trong xã hội tư tưởng của cô, thì đây là lúc mà niềm tin của cô sẽ phải lên tiếng. Khi có niềm tin, cô sẽ tìm thấy đạo, con đường đưa cô đến hạnh phúc. Do đó, tư tưởng, đạo, và xã hội phải nhịp nhàng thì con người mới đạt được thanh bình và an lạc. Từng lời đạo sĩ như lời chào tạm biệt cô gái và con chó. Tiếng chân nhỏ dần cùng với bóng dáng của họ. Cọng cỏ buồn bã, “Đến rồi đi, đạo sĩ có bỏ đi một ngày nào đó không?”

HỌC ĐỂ QUÊN Cọng cỏ nín thở nhìn theo dáng cô gái và con chó từ từ mờ tan vào làn hơi nước ban mai. Nó thở phào, đạo sĩ hỏi: - Ngươi không thích sự hiện diện của cô gái và con chó? - Không hẳn thế, chỉ vì tôi có nhiều điều muốn hỏi ông. - Tại sao ngươi không hỏi khi có họ ở đây? - Ông bận nói chuyện với họ, còn tôi thì bận nghe ông và họ bàn luận. - Bây giờ ngươi muốn hỏi gì? - Tôi quên rồi. - Vậy thì tốt cho ngươi. Cọng cỏ ngạc nhiên: - Tại sao? - Những sự hiểu biết ngươi thu lượm được, phải quên hết đi. - Học để quên? Ông dạy gì mà lạ thế? – Cọng cỏ bực dọc. - Khi ngươi quên tất cả rồi thì kiến thức đó mới thực sự giúp ích cho ngươi và thuộc về ngươi. - Tôi chưa hiểu. - Hãy tưởng tượng kiến thức như sỏi đá dồn vào đầu ngươi. Nếu ngươi cứ nghĩ chúng là sỏi đá, đầu ngươi sẽ chỉ là cái lọ đựng nặng chình chịch và có giới hạn. Nếu ngươi quên sự hiện diện của chúng, đầu ngươi nhẹ tênh, và ngươi sẽ có thể thu thêm kiến thức. - Thế những sỏi đá ấy đâu? Đạo sĩ cười: - Chúng sẽ biến thành những gì ngươi muốn và bay ra khỏi đầu ngươi. - Làm sao tôi có thể thực hiện được điều ông nói? Đạo sĩ đưa ngón tay đến sát cọng cỏ làm nó phải nghiêng mình xuống: - Ông làm gì thế? – Cọng cỏ ngạc nhiên. - Ngươi đang nhìn thấy gì? - Ngón tay của ông chứ cái gì. - Nhìn kỹ xem – Đạo sĩ đưa ngón tay gần hơn nữa làm cọng cỏ phải nhắm mắt lại: - A! Tôi thấy khuôn mặt của ông đằng sau ngón tay đấy. - Tốt, bây giờ người hiểu chưa? Nếu ngươi chỉ nhìn thấy hay nhớ cái ở trước mắt ngươi thì ngươi chẳng thấy cái gì khác cả, ngươi phải quên cái truớc mắt, quên mớ ngôn ngữ mà ngươi thu lượm được thì ngươi mới có thể sống với ý nghĩa chứa đựng trong mớ ngôn ngữ ấy. Cọng cỏ im lặng một hồi dường như để ôn lại lời của đạo sĩ, chợt nó thốt lên: - Này, ông có thể nhắc lại được không, ông làm đầu tôi rối lên rồi. Đạo sĩ cười sảng khoái: - Ngươi khá thông minh đấy, cọng cỏ ạ. Cọng cỏ lúc lắc đầu, thử xem mớ kiến thức của nó có kêu lạo xạo trong đầu hay không. KẾT Mặt trời xuống, nhường phần sáng tự nhiên trong tâm thức đạo sĩ rọi vào muôn loài. Khu rừng bỗng rực lên và nhộn nhịp hơn trước. Cọng cỏ, có lẽ đã quên hết những cuộc đàm đạo cùng đạo sĩ, nó bâng quơ với thắc mắc của chính mình: “ Tại sao đạo sĩ lại tồn tại trong khu rừng hoang vắng này?” Nhưng cọng cỏ không lên tiếng hỏi đạo sĩ về sự hiện diện của ông. Nó mải ngắm nhìn cảnh vật xung quanh, đẹp như một bức tranh xếp hình tinh xảo. Nó có cảm giác an nhiên thanh thản, dường như nó đã hiểu sự hiện hữu của mọi vật xung quanh và sự xếp đặt của tạo hóa. Có điều, nó không nhớ tại sao nó lại hiểu...


ĐTQA
2000

thử Thách Trong Tâm Linh.

Thử Thách Trong Tâm Linh

http://www.vietbao.com/?ppid=45&pid=45&nid=157886
Thử Thách Trong Tâm Linh PHƯƠNG CHÍNH NGUYỄN QUANG ĐẠT . Việt Báo Thứ Hai, 4/12/2010, 12:00:00 AM
Thử Thách Trong Tâm Linh
Phương Chính Nguyễn Quang Đạt“Sự vật trong đời, không bao giờ ngẫu nhiên mà có cũng không bao giờ ngẫu nhiên mà không. Có hoặc không chỉ là cái quả, nguyên nhân nó hoặc gần hoặc xa, chắc chắn là phải có. Có biết đặng nguyên nhân, mới biết được sự việc. Óc nhân quả rất cần để suy tư cho tới nơi tới chốn, rất cần trong khi nghiên cứu triết học.Nhân không phải dễ tìm, nó ở đủ mọi phương, không chỉ riêng có một hướng. Cho nên phải tìm nguyên nhân và nguyên nhân…cho đến tận cùng. Cái học vượt thời gian, không gian để tìm nguyên lý duy nhất và căn bản của sự vật. Đó là cái học thuộc về siêu hình.”Để giúp cho sự vận hành của vũ trụ, âm và dương là hai yếu tố không thể thiếu được, cũng như thiện và ác là hai điều kiện cốt yếu cần phải có để duy trì trật tự và đời sống tâm linh của con người.“Thiện cũng như ác, tốt cũng như xấu và chánh cũng như tà đều là hai mặt của một sự kiện tuy đầy mâu thuẫn nhưng không thể rời nhau. Trong thiện có ác, trong ác có thiện và người ta không thể tiêu diệt một thứ mà không đụng chạm đến phần kia vì tất cả đều là một.”Vì không thấu hiểu được điều này, con người hay sanh tâm phân biệt là thường dùng thành kiến sai lầm của mình, một sự thiếu hiểu biết trên căn bản của nguyên tắc siêu hình, để phán xét một sự kiện huyền bí hay những hình thức thị hiện của bề trên - một sự thể hiện đầy ẩn ý thâm sâu trong mục tiêu giảng dạy đạo lý cho con người, hay cũng gọi là “phương tiện”. Những thử thách đưa ra từ thế giới bên kia còn là một hàng rào cản trở và lựa chọn những hành giả đi trên con đường tu học tâm linh.Nhìn về quá khứ xa xưa, hãy xem những thử thách và cám dỗ của thế giới vô hình đối với các đấng giáo chủ của các tôn giáo lớn ra sao?Nơi phương Tây, trước khi chúa Jesus ra hành đạo, 40 ngày nơi sa mạc Ngài đã bị ma quỉ thử thách bằng đủ mọi cách cho đến cuối cùng Quỷ vương (Satan) đã dùng quyền lực thế gian để cám dỗ Ngài như sau:“Bấy giờ, Đức Thánh Linh đưa đức Chúa Jesus đến nơi đồng vắng, đặng chịu ma quỉ cám dỗ…Ma quỉ lại đem Ngài lên trên núi rất cao, chỉ cho Ngài các nước thế gian, cùng sự vinh hiển các nước ấy, mà nói rằng: Ví bằng người sấp mình trước mặt ta mà thờ lạy, thì ta sẽ cho ngươi hết thẩy mọi sự này. Đức Chúa Jesus bèn phán rằng: Hỡi quỉ Satan, ngươi hãy lui ra! Vì có lời chép rằng: ngươi phải thờ phượng Chúa là Đức Chúa Trời người, và chỉ hầu việc một mình Ngài mà thôi (Phúc Truyền 6:13).Nơi phương Đông, Đức Phật Thích Ca đã chiến thắng vượt qua cám dỗ sắc dục cuối cùng của Ma vương trong ngày thứ 49 dưới cây Bồ Đề để trở thành bậc vô thượng chánh đẳng chánh giác.“…Khi Ma vương thất bại trở về, thì bàn tính với ba người con gái rằng: Ta quyết đem binh khí đến hại Thái Tử, mà người vẩn không có chút gì nao núng, ta lại biến hóa đủ phép thần kỳ mà cũng không đánh đổ đặng. - Các con hãy hóa-trang và ăn mặc cho thật đẹp, xuống cõi Diêm-phù-đề, gặp sa-môn dòng Sakya đang ngồi nhập định dưới cội cây pippala gần thành-phố Gaya, ra tài múa hát, trêu chọc, khêu gợi dục tình, khiến cho hắn mất hết thần-thông, không thể thành đạo vô thượng có hại cho chúng ta.Ma vương nói rồi, thì ba người con gái đều vâng lời sửa soạn ra đi. Người thứ nhất tên là Tanha (Ái Dục), người thứ hai tên là Arati (Bất Mãn) và người thứ ba tên là Raga (Tham Vọng), đều hóa ra ba nàng tiên nữ tuyệt đẹp, hình dung yểu điệu, nhan sắc tươi xinh, thiết tưởng trong thế gian xưa nay chưa hề có.Ba nàng cùng nhau đi đến chổ Thái Tử ngồi, trước giả đem hoa tốt hương thơm dâng cúng, rồi sau lần lần lộ vẻ yêu kiều để trêu ghẹo. Ngờ đâu Thái Tử tâm trí vững bền như núi Tu Di, không có chút gì lay động. Lúc ấy ba nàng Ma nữ lại càng tỏ thói phong tình, cạn lời hoa nguyệt, cố ý cám dỗ chờ Thái Tử động tâm, mà ngài vẫn cũng tự nhiên và đáp lại rằng:- Các ngươi đã trồng căn lành nhiều đời, nay được làm thiên-nữ, hưởng phước báo nơi cõi trời, sao không nhớ thân này là vô thường, có ngày hoại diệt, còn có thái-độ vô lễ đối với ta? Thân hình tuy đẹp mà tâm bất chính có khác chi cái túi da đựng đồ nhơ bẩn, lại đây làm chi, hãy đi đi, ta không dùng.Thái Tử nói rồi liền lấy tay chỉ ba nàng Ma nữ, tức thì ba nàng ấy đều hoá ra mụ già, da nhăn, tóc bạc, thân thể lỏa lồ xấu xa nhơ nhớp…”Sự thành tựu vượt qua hết các thử thách và hàng phục ma quỉ đã làm tăng thêm giá trị và uy tín của hai Ngài trên con đường cứu thế và giáo hoá chúng sinh.Mỗi người mỗi kiếp sống và tất cả đều cùng trãi qua những thử thách khác nhau. Không ai thành đạt mà không gian khổ vì gian khổ là quá trình trui luyện để tiến đến thành công.Đối với hàng giáo chủ thì có sự thử thách theo cấp bậc của giáo chủ, còn đối với các tu sĩ thì cũng có thử thách theo cấp bậc của tu sĩ.Câu chuyện “Ngư Tinh” dưới đây cũng không nằm ngoài sự thử thách của thế giới tâm linh.Ngư Tinh là câu chuyện hoàn toàn có thật đã xảy ra trong giới Tăng Già Khất Sĩ tại miền Tây nước Việt vào những năm đầu tiên của thập niên 60 do sư Giác Minh (sư hiện đang cư ngụ tại miền Nam California) thuật lại vào năm 1994 tại Anaheim, CA.Danh sư lẫy lừng Hà Tiên Trấn,Trấn áp Ngư tinh chẳng vẫy vùng.Mượn xác giai nhân hằng cơm nước,Dở chước yêu xưa, gạ đến cùng!Chuyện xảy ra tại tỉnh Hà Tiên, miền Tây nước Việt vào năm 196., nói về một nhà sư tên là Giác Yên lập nguyện toạ thiền sáu năm (không nằm) và chỉ ăn vật thực do người mang đến. Cùng lập nguyện với vị sư nầy có hai sư đồng môn khác, và sư Giác Minh là một trong 3 người.Sư Giác Minh cho biết (qua kinh nghiệm của chính bản thân): “Những ngày đầu tiên thật là khổ sở vô cùng, lưng đau mỏi mệt chỉ thèm ngã lưng nằm xuống dù chỉ trong một chút là đã lắm rồi, nhưng rồi mọi người cũng vượt qua với bao cố gắng và quyết tâm”.Sáu năm trời thấm thoát trôi qua. Đến ngày mãn nguyện thì sư Giác Yên lại lập nguyện thêm sáu năm nữa, và lần này khó khăn hơn chẵng khác gì nhập thất, sẽ tịnh khẩu và chỉ ăn rau cải mà thôi. Trong suốt mười hai năm tu tập, cơm nước hằng ngày được một bé gái trong làng gần đó mang đến. Sư Giác Minh cho biết lúc ban đầu cô bé khoảng 9 tuổi.Ngày tháng trôi qua cùng với bao sự kính phục của chư tăng và dân cư trong làng. Danh sư Giác Yên vang dội khắp nơi. Và cuối cùng ngày trọng đại đã đến, đó là ngày kết thúc 12 năm dài lập nguyện của sư. Mọi người đều hoan hỉ tổ chức đại lễ chúc mừng sư. Đúng vào ngày này, sư Giác Yên đã thỉnh nguyện chư tăng xin được hoàn tục để cưới cô gái nay đã 21 tuổi.Sư Giác Minh cho biết: “Tin sư Giác Yên xin hoàn tục để lập gia dình như sét đánh ngang tai, làm cho mọi người bàng hoàng thất vọng”. Vì giáo luật Phật giáo không cấm tu sĩ hoàn tục, nên thỉnh nguyện của sư Giác Yên được chấp thuận. Mọi người đều than tiếc cho công trình tu tập khó nhọc của sư. Tuy nhiên hôn lễ của ông đã bị khước từ không cho tổ chức tại chùa nên phải cử hành tại chân núi.Vào đêm động phòng, ông đã bị cô gái đá tung ra ngoài với một sức mạnh khủng khiếp làm bể tung cả ván phòng, và việc yêu quái đã diễn ra làm náo động dân làng.Được tin cấp báo, sư Giác Minh cùng với một số sư trong chùa vội vã đến xem. Khi đến nơi, mới biết cô gái đang bị yêu nhập, sư Giác Minh đã dùng phép Phục Ma Trượng để trục xuất yêu tinh. Bị khuất phục, yêu tinh trong xác cô gái lộ hình như một con cá nằm trên đất, miệng trào nước dãi, hai chân thì vẫy qua vẫy lại hai bên như đuôi cá.Bị tra hỏi, thì yêu nhập cho biết: “Ta vốn là Ngư tinh sống hai ngàn năm dưới biển, thường hay lên bờ nhập phá dân làng. Điều ta khiếp sợ nhất là gặp phải sư Giác Yên vì công phu tu tập của ông ta quá thâm cao. Chỉ một cái nhìn của ông ta đã khiến ta xuất khỏi xác. Chính vì oán thù này, ta đã từng tìm đủ mọi phương cách để hảm hại. Và cuối cùng ta đã dùng nữ sắc qua xác cô gái để lung lạc và phá hoại đạo hạnh của hắn, và ta đã thành công”. Nói xong, Ngư tinh đắc thắng cười vang. Sư Giác Minh cho biết trước khi xuất khỏi xác cô gái, Ngư tinh còn tiến tới đánh một bạt tay vào mặt ông Giác Yên trước sự chứng kiến đông đảo của dân cư trong làng. Bởi hôn sự đã hoàn thành, nên ông ta phải cùng cô gái chung sống đời thế tục.Sau dữ kiện này thì hầu như mọi người biết đến đều cho rằng: “Hễ tu càng cao thì dễ bị ma quỷ khảo đảo càng dữ.” Để rồi những người còn lại đều trở nên thận trọng và e dè hơn trước nữ sắc.Nói chung, tu sĩ cũng chỉ là người bình thường như bao người khác, ngày nào còn mang thân tứ đại và chưa thật sự liễu ngộ về vô thường, và hạ quyết tâm trên con đường giải thoát thì ngày đó vẫn còn luôn đối đầu trước cám dỗ và sự đòi hỏi tự nhiên của thân xác.Ngẫm nghĩ lại câu chuyện trên, tuy sư Giác Yên đã không đủ căn duyên đi hết trên con đường đạo nhưng ông đã có một sự quyết tâm thật can trường, và đã thật sự sống với lý tưởng của mình. Duyên đạo đã hết thì dứt khoát cởi bỏ tăng y trở về kiếp sống phàm nhân để tránh phạm bởi những điều có thể làm nhơ danh giáo hội về sau. Thất bại của một người cũng là bài học đáng giá cho những người theo sau. Ngư tinh có thật hay không? Xin để mọi người suy nghiệm về ẩn ý tác động của thế giới siêu hình.Phương Chính Nguyễn Quang Đạt (www.duongsinhthucphap.org)

Thursday, May 5, 2011

Đức Dược Sư Như Lai.

Hạnh nguyện của đức Dược Sư Như Lai - Đạo Phật Ngày Nay
Feb 10, '11 3:19 AMfor everyone
Link: http://www.daophatngaynay.com/vn/phat-phap/buoc-dau-hoc-phat/duc-phat-...
Hạnh nguyện của đức Dược Sư Như Lai
05/11/2010 00:09:00 Tuệ Giác

12 hạnh nguyện của đức Phật Dược Sư đã chấn động tam thiên đại thiên thế giới. Bất luận là xuất gia hay tại gia nếu chuyên tâm trì niệm, chiêm ngưỡng và lễ bái hoặc nhớ nghĩ đến hình tượng của Ngài đều có thể vượt qua tất cả chướng duyên trong cuộc sống, được thân tướng đẹp đẽ trang nghiêm, đem lại niềm an vui tự tại cho chính mình và tha nhân.
Cứ mỗi độ Xuân về, những mầm xanh đâm chồi nẩy lộc, tỏa ngát trong không gian tĩnh lặng hòa vào hương sắc nhộn nhịp của ngày đầu Tết Nguyên Đán. Theo truyền thống Phật giáo, vào ngày mồng TÁM đầu năm, lễ hội Dược Sư được tổ chức thường niên, các chùa thường “khai đàn Dược Sư” hay còn gọi là “lễ Cầu an”.Hàng xuất gia cũng như tại gia đều chuyên tâm cầu nguyện “Thế giới hòa bình, chúng sanh an lạc”.
Đặc biệt, có 49 ngọn nến thắp lên tượng trưng cho ánh sáng trí tuệ, đó là ánh sáng mầu nhiệm của đức Phật Dược Sư Lưu Ly, soi sáng đến cho nhân loại. Dược Sư tiếng Phạn là , gọi đủ là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai hay còn gọi là Đại Y Vương Phật, Y Vương Thiện Thệ. Ngài là giáo chủ nước Tịnh Lưu Ly ở phương Đông, đã phát ra 12 thệ nguyện để cứu chữa bệnh tật cho chúng sanh vô minh ám độn. Đó là:
Nguyện thứ nhất: Nguyện thân ta và hết thảy các loài hữu tình đều có hào quang rực rỡ.Nguyện thứ hai: Nguyện có quang minh rộng lớn, uy đức vời vợi để khai nguồn thông suốt cho tất cả chúng sanh.Nguyện thứ ba: Nguyện cho chúng sanh không thiếu thốn, tùy theo lòng mong cầu mà được toại nguyện.Nguyện thứ tư: Nguyện cầu hết thảy chúng sanh đều theo Đại thừa liễu nghĩa.Nguyện thứ năm: Nguyện cho tất cả chúng sanh tu hành phạm hạnh thanh tịnh, giữ gìn đầy đủ Tam tụ tịnh giới.Nguyện thứ sáu: Nguyện hết thảy chúng sanh đầy đủ thiện căn, trang nghiêm sáng suốt.Nguyện thứ bảy: Nguyện cho tất cả chúng sanh thân tâm thường an lạc, chứng quả Vô sanh.Nguyện thứ tám: Nguyện cho tất cả chúng sanh chuyển nữ thành nam đủ tướng trượng phu, tu chứng đạo Vô thượng.Nguyện thứ chín: Nguyện cho các loài hữu tình được giải thoát mọi ràng buộc của Thiên ma ngoại đạo, tà kiến, ác kiến, dẫn dắt, thu nhiếp họ trở về chánh kiến.Nguyện thứ mười: Nguyện cho tất cả chúng sanh giải thoát các tai nạn bất thường, giặc cướp, lấn hiếp của ác ma.Nguyện thứ mười một: Nguyện cho chúng sanh bị đói khát được ăn uống ngon lành và no đủ. Sau đó đức Phật ban cho Pháp vị để dựng nên quả đức an vui.Nguyện thứ mười hai: Nguyện hết thảy chúng sanh bị nghèo cùng khốn đốn đều được đầy đủ, đồ dùng quý báu trang nghiêm “Sở nguyện tùy tâm, sở cầu như ý”.Thật vậy, 12 hạnh nguyện của đức Phật Dược Sư đã chấn động tam thiên đại thiên thế giới. Bất luận là xuất gia hay tại gia nếu chuyên tâm trì niệm, chiêm ngưỡng và lễ bái hoặc nhớ nghĩ đến hình tượng của Ngài đều có thể vượt qua tất cả chướng duyên trong cuộc sống, được thân tướng đẹp đẽ trang nghiêm, đem lại niềm an vui tự tại cho chính mình và tha nhân. Phải chăng, đây là nền tảng khởi nguyên để đạt đến hạnh nguyện của người xuất gia tầm cầu giải thoát. Vậy hạnh nguyện độ sanh là gì? Theo Từ điển Phật học Hán Việt, Hạnh nguyện dịch âm là Hành nguyện có nghĩa là hành động của thân và ý nguyện của tâm. Trong Thanh Long sớ quyển Hạ nói “Do Hành và Nguyện nương tựa vào nhau, cả hai đều tu không lệch bên nào”. Hay còn gọi là Hành nguyện cụ túc, có nghĩa là đầy đủ cả nguyện và hành. Vậy, Hạnh nguyện được giải thích tương đối súc tích, mang ý nghĩa sâu sắc và tính thực tiễn hiển bày. Ở đây, độ sanh là chỉ chung cho tất cả mọi loài, từ hữu tình cho đến vô tình chúng sanh, tất cả đều có thể vượt qua khổ ải luân hồi. Cũng có nghĩa là tế độ chúng sanh, độ thoát chúng sanh, dìu dắt chúng sanh từ nơi mê mờ đến ánh sáng rực rỡ bằng các phương tiện thiện xảo của chư Phật và Bồ-tát. Bởi vì, khổ là một thực trạng tâm lý mà chúng sanh phải thọ nhận, cũng là một thách thức cho bao thế hệ đã đi qua. Do đó, bằng ánh sáng trí tuệ, chúng ta phải tìm ra phương thức đoạn trừ nó. Hơn nữa, khổ đau là một yếu tố phổ cập bao hàm và ẩn chứa một ý nghĩa triết lý sâu xa, không phải chỉ biểu lộ chán đời hay bi quan mà còn là trạng thái đau khổ từ vật chất đến tinh thần.Chúng ta sẽ từng bước tìm hiểu để nhận thức tường tận về đức Phật Dược Sư trên bình diện tâm linh cũng như củng cố niềm tin đúng với chánh lý.TIN VÀO CÔNG NĂNG CỨU ĐỘ QUA ĐẠI NGUYỆN CỦA ĐỨC PHẬT DƯỢC SƯMười hai đại nguyện của đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai khiến cho tất cả các loại hữu tình cầu gì cũng được. Bởi vì, 12 thệ nguyện là biểu thị cho công năng thực hành hạnh cứu khổ, hàm nhiếp cả Tứ vô lượng tâm (Từ, Bi, Hỷ, Xả) của chư Phật và Bồ-tát. Nếu nói về thần lực hành đạo thì đức Phật Dược Sư cũng có thể hóa thân làm Bồ-tát để cứu độ chúng sanh thoát khỏi mọi tai ách. Đặc biệt, Ngài chữa trị các căn bệnh tâm lý. Có người khi gặp tai nạn hay bệnh chứng khó qua khỏi cơn nguy biến liền niệm danh hiệu Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai hay đứng chấp tay quán tưởng hình tượng của Ngài liền được hóa giải mọi khổ đau. Từ đó, nếu chúng ta tu tập 12 hạnh nguyện trong lúc đi, đứng, nằm, ngồi… mỗi mỗi đều nhất tâm, tất nhiên sẽ cảm nhận một cách vi diệu trong từng ý niệm tỉnh giác của tâm thức. Và từng ý niệm đó tác động đến cơ thể để vượt qua mọi tật bệnh. Ngày nay, khoa học đã công nhận “Nhân điện” là một phương thức trị bệnh. Họ có thể nhận thiên khí vào cơ thể con người, sau đó kết hợp năng lượng sẵn có để có thể chẩn trị mọi chứng bệnh. Thế nên, chúng ta là đệ tử của Phật sao không dùng pháp môn niệm Phật để điều hòa hơi thở và chữa trị những căn bệnh tự thân. Đối với những hành giả tu tập, trên lộ trình chứng đắc quả vị Vô thượng, tất nhiên cần phải thể nhập một cách hoàn hảo về 12 hạnh nguyện của đức Phật Dược Sư. Vì Ngài là biểu thị cho chân lý và nhân cách hoàn mỹ, là Bậc giác ngộ thành tựu Phật quả, làm giáo chủ ở cõi Tịnh Lưu Ly.Đức Phật Thích-ca dạy: “Ở phương Đông có một thế giới đặc biệt, đời sống an lạc và hạnh phúc tương đương với thế giới Cực Lạc của đức Phật A-di-đà ở phương Tây. Này Mạn-thù-thất-lợi! Trong khi thực hành Bồ-tát đạo Ngài đã phát ra 12 đại nguyện làm cho tất cả chúng sanh có chỗ sở cầu đều toại nguyện.” Như thế, 12 thệ nguyện này có mãnh lực rất lớn đối với người tại gia cũng như xuất gia, nếu tu tập, trì tụng kinh Dược Sư hoặc niệm danh hiệu Ngài đều có thể vượt qua tất cả nguy hiểm như bị giam cầm lao ngục, bệnh tật liên miên… đều được an vui tự tại. Cho nên, Hòa thượng Thích Nhất Hạnh có dạy: “Đối với hàng xuất gia trong lúc tu tập, nếu bị sai lạc thì Ngài gia hộ cho chúng ta tu hành chơn chánh, không bị tà ma ngoại đạo quấy nhiễu. Hoặc đối với những người phạm giới phá trai, nếu chí thành cầu nguyện đức Phật Dược Sư thì sẽ được khôi phục lại giới thể, phát huy những hạnh lành, tu hành tinh tấn, chứng được đạo Vô thượng Bồ-đề.”Vậy, hạnh nguyện là món ăn tinh thần của mỗi hành giả, bởi vì chúng ta thường quan niệm “Sống phải có ý nghĩa, tu phải có hạnh nguyện.” Điều đó chứng tỏ rằng, trong việc mong cầu hạnh phúc an vui, người đệ tử Phật không thể thiếu hiểu biết, niềm tin và hạnh nguyện cũng như những gì thuộc về tâm linh. Phật giáo vẫn thừa nhận người tu hành chơn chánh sẽ được Thiên long, Bát bộ, Hộ pháp, Thiện thần hộ niệm, nhưng muốn đạt thành quả Phật thì phải áp dụng 12 hạnh nguyện của đức Phật Dược Sư trong đời sống tự thân. Những công đức hành trì đó có thể tự trị các bệnh tật.CÔNG ĐỨC ĐỌC TỤNG VÀ TRÌ CHÚ DƯỢC SƯTrong cuộc sống bình nhựt, người xuất gia cũng như tại gia, nếp sống tâm linh ảnh hưởng rất lớn đối với tự tâm của mỗi người. Nếu hằng ngày chúng ta trì niệm, đọc tụng hoặc xưng danh hiệu của đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai thì sẽ được ứng nghiệm ngay trong hiện tại. Đặc biệt, chú Dược Sư mang một ý nghĩa rất quan trọng khi chúng ta hành trì, vì không những vượt qua mọi khổ ách, mà sau khi mạng chung còn được sanh về thế giới Tịnh Lưu Ly, dần dần tu chứng đạt được quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác.Duyên khởi của thần chú Dược Sư, đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã dạy cho Mạn Thù Thất Lợi Bồ-tát trong kinh Dược Sư Bổn nguyện công đức: “Này Mạn Thù Thất Lợi! Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai khi chưa chứng được đạo quả Bồ-đề, do sức bổn nguyện mà Ngài quan sát biết chúng hữu tình gặp phải các thứ bệnh khổ như da vàng, gầy ốm, cảm nhiệt, thương hàn, v.v…”. Vì muốn những bệnh khổ ấy được tiêu trừ và lòng mong cầu của chúng hữu tình được mãn nguyện, nên Ngài liền nhập định tên là “Định diệt trừ tất cả các khổ não cho chúng sanh.” Khi Ngài nhập định, từ trong nhục kế phóng ra luồng ánh sáng lớn, trong luồng ánh sáng ấy nói chú Đại Đà-la-ni: “namo bhagavate bhaiṣaijya guru vaidurya prabharājāya tathāgataya arhate samyaksambuddhāya tadyathā: om bhaiṣaijye bhaiṣaijye bhaiṣaijya samudgate svāhā”Phiên âm: “Nam-mô Bạc-già-phạt-đế, bệ-sát-xã, lũ-lô-thích-lưu-ly, bát-lặc-bà, hắc-ra-xà-giả, đát-tha yết-đa-da, a-ra-ha-đế tam-miệu tam-bồ-đề-da, đát-điệt-tha. Án, bệ-sát-thệ, bệ-sát-thệ, bệ-sát-xã, tam-một-yết-đế tóa-ha!! ”Như vậy, công đức đọc tụng, hành trì chú Dược Sư rất vi diệu. Chúng ta có thể gặt hái những thành quả tốt đẹp ngay trong hiện tại. Bởi vì, đó là những âm thanh của chư Phật nói ra, có ảnh hưởng trực tiếp đến nhịp điệu rung chuyển của làn sóng quang minh trong tâm thức chúng sanh. Từ đó, niềm tin được vững chắc, chú nguyện được viên mãn, chính là nhờ công đức bất khả tư nghì của bản nguyện Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai. Nhất là lúc lâm chung, chỉ cần nghe danh hiệu của Ngài liền có tám vị Bồ-tát đủ sức thần thông đến hướng dẫn sanh về thế giới Cực Lạc Tây phương, hoa báu trang nghiêm.ẢNH HƯỞNG CUỘC SỐNG TINH THẦN TÍN NGƯỠNGPhàm là con người ai cũng muốn sống một cuộc đời hạnh phúc an lành, cho dù là bần nông hay trí thức. Nhưng đường đời có bao giờ thuận theo ý muốn của con người. Do vậy, những vấn đề trong cuộc sống khó có thể giải quyết được, chắc chắn họ sẽ tìm đến tôn giáo. Điều đó có nghĩa là trong cuộc sống, tinh thần tín ngưỡng ảnh hưởng rất lớn đến đời sống tâm linh của mỗi cá nhân. Đa phần, niềm tin bị hạn chế bởi những người đặt nặng vật chất lên trên đời sống tinh thần. Vì thế, mặc dù hằng ngày có trì niệm, đọc tụng kinh Dược Sư, nhưng hiệu quả rất thấp, đó là vì họ không thành tâm thành ý. Mỗi hạnh nguyện có một công năng đặc thù, nếu trong đời này, bất cứ hành giả nào khi có tín tâm rồi nên phát nguyện sanh về cõi Tịnh Lưu Ly của đức Phật Dược Sư. Sự phát nguyện này, đòi hỏi hành giả phải ứng dụng 12 lời nguyện vào cuộc sống để phát huy công đức lành của tự tâm, đưa tâm mình thể nhập chân lý tuyệt đối.Như vậy, niềm tin tín ngưỡng tác động đến hiện thực cuộc đời qua 12 hạnh nguyện của đức Phật Dược Sư. Thực sự, nó ảnh hưởng rất sâu sắc và vô cùng quan trọng trong cuộc sống hằng ngày của người đệ tử Phật. Những hạnh nguyện đó ví như những viên thuốc đặc trị tâm bệnh của chúng sanh và cũng là chân giá trị bất hủ. Bởi vì, sự hành trì hiện tại vẫn mang lại hữu ích cho hành giả tu tập “Bản nguyện công đức của đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai.”HÌNH ẢNH BIỂU TRƯNG VÀ GIÁ TRỊ HIỆN THỰC
Theo hình tượng hiện nay, chân dung đức Phật Dược Sư được tín ngưỡng xưa nay có tóc xoắn ốc, tay trái cầm bình thuốc, tay trái phải kiết Ấn thí vô úy. Hai bên có hai vị Bồ-tát làm thị giả đó là Bồ-tát Nhật Quang và Bồ-tát Nguyệt Quang. Đây là hình tượng được gọi là Dược Sư Tam Tôn.Về hình tượng tóc xoắn ốc là một trong những tướng tốt của đức Phật, tay cầm bình thuốc biểu thị cho ý nghĩa đức Phật Dược Sư có vô lượng công đức, báu vật và diệu pháp mầu nhiệm để giúp hành giả tu tập, chuyển hóa tự thân. Điều đặc biệt ở đây là tay phải Ngài kiết Ấn vô úy. Vô úy chính là không sợ hãi, hình ảnh đó với mục đích giúp cho chúng sanh có niềm tin vững chắc để thiết lập sự bình yên cho thân và tâm.Hai vị Bồ-tát đứng hầu đức Phật Dược Sư là biểu trưng cho Căn bản trí (Nhật Quang Biến Chiếu) và Hậu đắc trí (Nguyệt Quang Biến Chiếu). Điều đó, xác định mọi phương tiện mà Ngài vận dụng đều phát xuất từ hai trí này. Hơn nữa, Lưu Ly là chỉ cho một trong bảy báu vật, đó là loại đá quý màu xanh. Màu xanh là biểu thị lòng từ bi và sự sống. Thế nên đức Phật Dược Sư là tổng thể, bao hàm mọi hình ảnh, có tác dụng khai phóng tâm thức hành giả. Từ ý nghĩa trên có thể khẳng định rằng mỗi chúng ta là mỗi đức Phật Dược Sư, nếu phát huy tận cùng công đức trí tuệ và diệu pháp nhiệm mầu của bản tâm.Như vậy, từ hình ảnh biểu trưng đã làm nổi bật giá trị hiện thực. Đức Dược Sư Như Lai đã trang nghiêm tự thân và cõi nước của Ngài bằng 12 đại nguyện. Từ khi phát tâm, lập nguyện cho đến ngày chứng đắc quả Vô thượng chánh đẳng chánh giác là cả quá trình hành Bồ-tát đạo. Đây là kết quả của sự nỗ lực, tinh tấn không ngừng trong việc tu tập, ban vui cứu khổ cho chúng sanh nhiều đời.
Ở đây, dựa trên 12 đại nguyện, chúng ta thấy đức Phật Dược Sư đã xây dựng mô hình Tịnh độ, trong đó lấy chúng sanh làm trung tâm để hoàn thiện bổn nguyện. Do đó, nội dung của mỗi lời nguyện đều nói lên mục đích cứu khổ chúng sanh. Chúng sanh là đối tượng để Bồ-tát thực hiện viên mãn về hạnh nguyện. Hơn nữa, sự thành tựu của mỗi vị Phật, ngoài yếu tố hạnh nguyện, mục đích còn phải cụ thể hóa bằng hành động. Chính hành động lợi mình, lợi người là điều kiện căn bản để trang nghiêm cho báo thân Phật (Chánh báo) và cõi nước (Y báo) đạt đến hoàn bị.Trên cơ sở đó, sự tôn kính lễ bái đi đôi với việc thực hành 12 đại nguyện sẽ giúp chúng ta xây dựng cõi nước trang nghiêm thanh tịnh như Ngài. Điều đó, hành giả phải hoàn thiện trên hai mặt nghiêm tịnh tự thân và trang nghiêm cõi nước. Về tự thân, chúng ta phải giữ gìn Tam tụ tịnh giới, thực tập thiền định, phát huy trí tuệ vô lậu để chuyển hóa những ý niệm tham muốn, hờn giận, si mê, ích kỷ, ghen ghét, chấp ngã, chấp pháp, v.v… trở về tự tánh sáng suốt, bình đẳng, thanh tịnh. Sự chuyển hóa đó cần phải thực hiện với tâm vô trú, vô hành. Đây cũng là cách kiến tạo thế giới Tịnh độ ngay trong lòng mình. Song song với việc hoàn thiện tự thân, hành giả còn phải tu tập hạnh Bồ-tát trên cơ sở 12 đại nguyện, lấy chúng sanh làm đối tượng, hướng dẫn họ đạt đến an lạc và giải thoát; Làm được điều này cũng có nghĩa là kết duyên quyến thuộc với chúng sanh, cùng sống chan hòa với ánh đạo, biến cõi Ta-bà thành cõi Phật.Ngày nay, có những quan niệm, khuynh hướng và hành động đẩy nhân loại đến vực thẳm tương tàn, tương sát… nhất là nạn chiến tranh, khủng bố, thù hận, bệnh tật đang hoành hành. Là người Phật tử tại sao chúng ta không đem 12 hạnh nguyện của đức Phật Dược Sư ứng dụng trong đời sống tự thân cũng như xã hội, giúp họ một hướng đi đích thực, kiến tạo nền hòa bình, tự do và thịnh vượng?Đức Phật Dược Sư là bậc Đạo sư đầy đủ diệu pháp, diệu dược, có khả năng hóa giải mọi khổ đau cho chúng sanh. Qua 12 hạnh nguyện cũng như sự thành tựu viên mãn về thế giới Tịnh Lưu Ly của Ngài, đã dạy cho chúng ta nhiều bài học vô giá, mang tính thực tiễn cao trên con đường tu tập và hành Bồ-tát đạo.

Wednesday, May 4, 2011

Thuyết nhị nguyên và chân lý nhất như

Thượng Niết Bàn 35 - Thuyết Nhị Nguyên và Chân Lý Nhất Như
35 - Thuyết Nhị Nguyên và Chân Lý Nhất Như
Monday, 26 July 2010 06:03 Written by
User Rating: / 2 PoorBest
download
Thuyết Nhị Nguyên và Chân Lý Nhất NhưLục Tổ nói:”không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là bản lai diện mục của Thượng Tọa Minh?”. Khi con người không nghĩ thiện, không nghĩ ác, không nghĩ tốt, không nghĩ xấu, không nghĩ hay, không nghĩ dở …là họ đang sống với cái tâm bình thường của mình. Vì thế Kinh Hoa Nghiêm có câu:”Bản lai diện mục, Niết bàn diệu tâm” là vậy. Con người thường hay có thói quen là so sánh hay dùng đối tượng để đối chiếu. Chẳng hạn cái nhà nầy thì đẹp hơn cái nhà kia. Xe của tôi thì sang hơn xe của anh. Nhà hàng nầy nấu ngon hơn nhà hàng kia…Đây là kết quả của thuyết Nhị Nguyên (Dualism). Thuyết nầy cho rằng các hiện tượng của nhân sinh vũ trụ là do hai thứ bản thể đối nghịch làm thành, như thiện và ác, thể chất và linh hồn…Thuyết nhị nguyên nầy rất được ưa chuộng đối với người Tây phương vì nó giúp cho họ dễ dàng giải thích mọi hiện tượng hoặc đen hoặc trắng. Thí dụ một can phạm thì hoặc là có tội hoặc là vô tội.Đối với triết lý Tây phương thì họ tin tưởng vào thuyết “Tiền Định” (Determinism) mà nhà Phật gọi là thuyết “Nhân Quả”. Thuyết nầy cho rằng toàn thể thiên nhiên, trong đó có loài người, được chi phối bởi luật nhân quả (the law of cause and effect) tức là mỗi hiện tượng xảy ra không thể nào tự có mà phải có nguyên nhân. Đây cũng chính là giả thuyết căn bản của khoa học để tìm hiểu những định luật của thiên nhiên. Đối nghịch với thuyết Tiền Định hay Nhân Quả là thuyết Vô Định (Indeterminism) mà nhà Phật gọi là thuyết “Nhân Duyên”. Thuyết nầy cho rằng mọi việc xảy ra đều là do tình cờ ngẫu nhiên chứ chẳng có liên quan gì tới bất kỳ những gì xảy ra trước đó. Hai thuyết Tiền Định và Vô Định là hai thái cực đã từng làm cho các triết gia Tây phương điên đầu bởi vì cái nầy đúng thì cái đó không thể sai được. Bởi có hai thái cực như thế nên thuyết Nhị Nguyên mới ra đời.Nhưng việc đời không luôn luôn đơn giản như thế. Trong thế gian nầy có biết bao trường hợp ngoại lệ mà thuyết Nhị Nguyên đành bó tay. Chẳng hạn như có rất nhiều gia đình trâm anh thế phiệt, đa số con cháu ngoan ngoãn nết na tức là hợp với thuyết Nhân Quả (Tiền định) tự nhiên lại có một đứa con lêu lổng hoang đàng tức là hợp với thuyết Nhân Duyên (Vô định). Ngược lại trong chốn bùn dơ lại có khi mọc lên một đóa hoa sen thơm ngát.Chân lý của Đức Phật là xóa tan những biên giới của tư tưởng nhị nguyên để trở về với bản thể chân thật của nó là thân tâm nhất như. Chẳng hạn như hiện nay ở Hoa Kỳ danh từ sức khỏe tinh thần và sức khỏe thể xác được áp dụng rất rộng rãi. Khi tâm bất an thì đi bác sĩ tâm lý còn bệnh về thể xác thì chúng ta đi bác sĩ gia đình. Nhưng đối với Phật giáo thì tinh thần và thể xác là một. Tinh thần nằm trong thể xác và ngược lại. Thể xác có sinh tồn ổn thỏa cần có một tinh thần lành mạnh và con người muốn được an vui tự tại thì cả tinh thần lẫn thể xác phải hoạt động hòa điệu với nhau.Chỉ có Phật giáo mới cho chúng ta thấy được lẽ thật của tất cả hiện tượng trong vũ trụ nầy mà không còn hồ nghi. Bởi vì hễ bản thể có tới đâu thì hiện tượng có tới đấy. Con người hiện nay vì chạy theo thuyết Nhị Nguyên nên sống trong quay cuồng điên đảo vì thế Đức Phật mới dạy chúng sinh quay về sống với nguyên lý Bất Nhị tức là không hai thì tâm tư sẽ được ổn thỏa và cuộc sống sẽ trở lại an vui tự tại.Vì thế trong cái thế giới huyễn hóa nầy tất cả mọi người, mọi vật và mọi hiện tượng đều là Không và cũng chính từ trong cái Không nầy mà không có một cá thể riêng biệt độc lập nào có thể tách hẳn ra khỏi môi trường chung quanh được. Cũng như Sắc và Không thì chúng không bao giờ có thể tách rời nhau được. Do đó không có gì là toàn Sắc và cũng chẳng có gì là toàn Không. Như thế Sắc tức là Không và Không tức là Sắc hay nói một cách khác Sắc và Không là một tức là bất nhị. Nếu áp dụng thuyết nhị nguyên vào trong đời sống gia đình thì người chồng và người vợ là hai. Chồng có tiền bạc riêng của chồng và vợ thì hoàn toàn độc lập riêng của vợ. Thử hỏi gia đình nầy thật sự có hạnh phúc không? Bây giờ nếu ứng dụng nguyên lý bất nhị thì chồng tức là vợ và vợ chính là chồng, tuy hai nhưng mà một thì gia đình nầy mới thật sự hạnh phúc. Vì thế cổ nhân có câu:”của chồng công vợ” là vậy.Tất cả vạn pháp mà ngũ quan nhận biết được thật ra chỉ là cái Tướng giả Có bên ngoài. Còn cái bản thể chân thật bên trong mà nhà Phật gọi là Tự tánh thanh tịnh thì bất biến không thay đổi. Nếu nhìn theo Tướng thì có phân biệt tốt xấu, lớn nhỏ tức là nhị nguyên. Mà Tướng là giả Có, không thật. Còn dựa theo Tánh thì hoàn toàn đầy đủ, không cao không thấp, không tốt không xấu…Vì tốt xấu, cao thấp, sinh tử Niết bàn, phiền não Bồ-đề vẫn là một. Nói một cách khác trong tốt có xấu, trong cao có thấp, trong sinh tử có Niết bàn và trong phiền não có Bồ-đề. Bởi vì một khi con người biết thức tỉnh loại bỏ hết phiền não thì Bồ-đề hiện ra chớ không phải là phiền não một nơi mà Bồ-đề ở nơi khác. Thiện ác thì cũng thế. Khi nói thiện thì phải có đối tượng là ác. Do đó đạo Phật dạy không nghĩ thiện, không nghĩ ác tức là tiêu diệt đối tượng. Không còn đối tượng tức là bỏ phân biệt, bỏ so sánh thì tâm không chạy theo vọng niệm vì thế đây mới chính là thể tánh chân thật có sẵn trong tất cả mọi người, đó là chơn tâm vậy. Cái tánh thấy, tánh nghe hay tánh biết cũng chính là tự tánh thanh tịnh nầy mà ra.Thêm nữa, khi Lục Tổ nói bản lai diện mục tức là gương mặt thật sẵn có muôn đời của chúng ta và đó cũng chính là cái chơn tâm, cái Phật tánh của chúng ta vậy. Khi không nghĩ thiện, không nghĩ ác, không nghĩ tốt, không nghĩ xấu thì tâm không nghĩ tức là tâm không khởi vọng niệm. Bởi vì có bất cứ một ý niệm nào trong tâm cho dù tốt hay xấu thì cũng là vọng niệm, mà khởi niệm là vọng động sẽ làm mất cái chân thật tức là chơn tâm của mình. Do đó tâm dừng nghĩ thì chơn tâm mới hiện bày. Vì thế Lục Tổ khuyên nếu Thượng tọa Minh đừng để tâm chạy theo vọng niệm thì chơn tâm sẽ hiện bày. Cái chơn tâm nầy chính là cái tánh giác sẳn có trong Thượng tọa Minh và cũng trong tất cả mọi chúng ta.Sau khi ngộ đạo chính Lục Tổ cũng thốt luôn năm cái không ngờ. Ngài nói:1) Không ngờ tánh mình vốn tự thanh tịnh,2) Không ngờ tánh mình vốn không sanh diệt,3) Không ngờ tánh mình vốn tự đầy đủ,4) Không ngờ tánh mình vốn không giao động,5) Không ngờ tánh mình hay sanh muôn pháp.Khi chúng ta sống mà không tranh giành, hơn thua, phân biệt thì tâm của chúng ta sẽ vô cùng trong sạch, thanh tịnh và không còn phiền não. Cái tâm nầy chính là cái tâm thanh tịnh thường có trong tất cả mọi người mà chúng ta bỏ quên để chạy theo tâm phiền não khổ đau. Cái tâm thanh tịnh nầy chính là thật Tánh của chúng ta. Đó là cái không ngờ thứ nhất.Con người vì chạy theo vọng niệm nên cuộc sống lúc nào cũng điên đảo mà tạo ra nghiệp. Tự tánh vốn thanh tịnh nên không khởi vọng niệm. Nếu không khởi vọng niệm thì chúng ta không gây ra nghiệp. Mà không tạo nghiệp thì không còn sanh diệt tức là hoàn toàn viễn ly sanh tử luân hồi. Đó là cái không ngờ thứ hai.Bất cứ ai khi vừa mới vừa lọt lòng mẹ thì tự nhiên bật khóc oa oa mà không cần ai dạy. Lớn lên một chút chúng biết bò rồi biết đi cũng là tự biết chớ không phải chờ cha mẹ dạy mới biết. Khi đói thì chúng khóc đòi ăn, buồn ngũ thì chúng lăn ra ngủ. Tất cả những cái biết có sẵn như thế thì gọi là tự tánh. Con người ai cũng có sẵn cái tự tánh từ khi mới lọt lòng mẹ cho đến bây giờ. Cái tự tánh nầy không thêm, không bớt cho nên Lục Tổ mới nói tánh mình vốn tự đầy đủ là như vậy. Vì không biết điều nầy nên con người bỏ tánh mà chạy theo vọng trần tức là sống với cái trí thức điên đảo bên ngoài. Đây là cái không ngờ thứ ba.Cuộc sống càng văn minh phức tạp thì con người càng suy tư, nghĩ ngợi. Suy nghĩ về mình, về người, suy nghĩ về tinh thần và suy nghĩ về vật chất. Có ít thì suy nghĩ ít, có càng nhiều thì suy đêm nghĩ ngày. Con người càng suy nghĩ thì tâm càng vọng động. Mà suy nghĩ là tâm chớ không phải là tánh. Nhưng tự tánh của con người vốn thanh tịnh, không suy nghĩ và không giao động. Vì thế hằng ngày con người sống với tâm điên đảo quay cuồng thay vì sống với tự tánh thanh tịnh của mình. Đó là cái không ngờ thứ tư.Bản thể chân như tức là tự tánh của con người thì thường hằng bất biến. Nhưng từ cái bất biến nầy mà duyên sanh ra vạn pháp. Nói một cách khác Chơn không mà Diệu hữu tức là bất biến mà tùy duyên có nghĩa là từ cái Không mà sinh ra tất cả. Đó là cái không ngờ thứ năm.Nói tóm lại sự kiến tánh của Lục Tổ và của tất cả chúng sinh là khi con người biết quay về sống với cái tự tánh thanh tịnh của mình thì chơn tâm từ từ hiện ra. Đây là con đường giải thoát giác ngộ. Ngược lại nếu chúng sinh chay theo tâm tức là chạy theo vô minh vọng tưởng thì dĩ nhiên cuộc sống sẽ trở thành khổ đau, điên đảo. Càng vô minh điên đảo thì càng tạo nghiệp và đây là con đường sinh tử luân hồi.Lục Tổ lúc nào cũng chủ trương con người có thức tỉnh giác ngộ được hay không là bởi nơi tự tâm chớ không nhất thiết do nơi ngồi thiền. Vì thế pháp tu của Lục Tổ Huệ Năng được tóm gọn là:“Vô niệm làm tông, Vô tướng làm thể, Vô trụ làm gốc”.Dựa theo Pháp Bảo Đàn kinh thì Vô niệm là đối với niệm mà không niệm. Nếu thấy tất cả pháp mà tâm không ô nhiễm tức là vô niệm. Do đó khi sáu căn không dính mắc nơi sáu trần khiến cho sáu thức được hoàn toàn thanh tịnh, không bị ô nhiễm, hoàn toàn tự tại thì đây chính là vô niệm. Lục Tổ nói tiếp:“Người ngộ được pháp vô niệm thì muôn pháp đều thông, người ngộ được pháp vô niệm thì thấy cảnh giới của chư Phật và người ngộ được pháp vô niệm thì đến địa vị Phật”.Ngài Thần Hội phụ thêm ý nghĩa chữ vô niệm là:“Vô niệm tức là không có cảnh giới hay đối tượng nào cả. Nếu còn một cảnh giới tức chẳng tương ưng với vô niệm”. Và ngài lại nói thêm:“Người khéo thấy vô niệm thì sáu căn chẳng ô nhiễm. Thấy vô niệm tức hướng về Phật trí. Thấy vô niệm thì gọi là thật Tướng”.Thiền sư Huệ Hải là đệ tử của Mã Tổ Đạo Nhất, cháu đời thứ ba của Lục Tổ Huệ Năng cũng nhấn mạnh về ý nghĩa của chữ vô niệm rằng:“Vô niệm là ở tất cả chỗ mà không tâm, không tất cả cảnh, không có những nghĩ cầu và đối với các cảnh sắc mà không khởi động. Người được vô niệm sáu căn không nhiễm và tự nhiên được vào tri kiến chư Phật”.Thế nào là vô tướng làm thể?Con người vì mê lầm mà nghĩ rằng thân mình tức là ngũ uẩn là thật và vạn pháp sinh diệt cũng là thật cho nên cuộc sống mới quay cuồng đau khổ. Bây giờ nếu chúng sinh quay lại để thấy cái thật Tướng của con người cũng như vạn hữu là Vô tướng thì sẽ không còn điên đảo nữa. Mà thật Tướng chính là cái Thể, không sanh không diệt, của vạn hữu trong vũ trụ nầy. Thêm nữa, chân như tức là Thể của niệm và niệm chính là dụng của chân như.Nhưng thế nào là vô niệm?Vô niệm là không tà niệm chớ không phải là không chánh niệm. Tại sao?Nếu chúng ta niệm có, niệm không chẳng hạn như niệm thiện, niệm ác, niệm khổ vui, sanh diệt, niệm oán thân, yêu ghét là tà niệm. Còn chẳng niệm thiện, niệm ác, niệm vui, niệm sướng là chánh niệm.Thế nào là Vô trụ làm gốc?Vô trụ là tâm không dính mắc ở nơi nào tức là sáu căn không dính mắc sáu trần. Nếu được như thế thì tâm vô trụ tức là tâm Phật, hay là tâm giải thoát, tâm Bồ-đề, hoặc tâm vô sanh. Đây chính là chứng được vô sanh pháp nhẫn vậy.Toàn bộ hệ thống tu của đạo Phật đều lấy phản quang tự kỷ làm trọng tâm vì phản quang tự kỷ có nghĩa là xem xét và quán chiếu lại mình từ thân thể cho tới nội tâm để thấy rõ thân thể và nội tâm của mình như thế nào. Chẳng hạn như quán thọ thì khổ có nghĩa là con người phải quay lại để xem tất cả những cảm giác do sáu trần đến với mình thì chúng ta cảm nhận rõ ràng chúng đều vô thường, không thật Có và là gốc của khổ đau. Khi chúng ta bỏ tâm vọng tưởng mà phản quang tự kỷ để thấy được cái thật tánh thanh tịnh của mình thì đây chính là Như Lai Thanh Tịnh thiền. Do đó khi đi, đứng, nằm, ngồi con người lúc nào cũng giữ Chánh Niệm tức là theo tánh giác thì cũng như chúng ta đang tọa thiền vậy. Đối với những bậc thượng căn lợi trí như Lục Tổ Huệ Năng thì họ tiến xa hơn phản quang tự kỷ để đến trạng thái gọi là hồi quang phản chiếu.Vì thế mỗi khi Lục Tổ thấy đệ tử ngồi thiền thì ngài liền kéo lỗ tai bắt phải đứng dậy. Vậy không ngồi thiền mà làm sao ngài được giác ngộ? Phương pháp hồi quang phản chiếu mà Lục Tổ đã thực hành viên mãn là luôn luôn nhớ nơi sáu căn thường sáng tỏ mà không phóng ra ngoài. Câu:”Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” trong kinh Kim Cang làm ngài kiến tánh. Có thật chỉ có một câu kinh nầy mà đủ tiềm năng và sức mạnh để đưa con thuyền Huệ Năng sang bờ giác ngộ hay sao? Sự minh tâm kiến tánh của Lục Tổ không phải là một sự tự nhiên mà có mà đây chính là sự thức tỉnh toàn vẹn để sống với tự tánh của mình. Đó là sáu căn không dính mắc nơi sáu trần thì tâm hoàn toàn thanh tịnh và cái tâm nầy chính là chơn tâm, là cái tự tánh thanh tịnh sáng suốt thường có trong mỗi chúng ta. Nhưng thế nào là sáu căn không dính mắc nơi sáu trần? Sáu căn là mắt, tai, lưỡi, mũi, thân và ý và sáu trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp.Khi mắt thấy sắc mà tâm mê theo sắc là chạy theo sinh tử, còn tâm không chạy theo sắc là đạt quả Bồ đề. Thí dụ như mắt thấy một chiếc xe thật mới, thật đẹp và lộng lẩy mà tâm của chúng ta không rung động tức là lòng tham không nổi dậy. Tại sao chiếc xe đẹp như thế mà chúng ta không si mê? Khi biết vạn pháp giai không thì trên đời nầy có cái gì là thật đâu? Cái hình tướng đẹp đẻ bề ngoài nầy chỉ là giả tướng, là do nhân duyên tạo thành nên bị sinh diệt. Do đó cái đẹp ngày nay của chiếc xe chỉ là tạm bợ, nhất thời bằng một lớp sơn bóng bên ngoài và nó cũng trở thành xấu và hư hoại như những chiếc xe khác nay mai mà thôi. Thế thì xe vẫn là xe và ta vẫn là ta, chả có gì là quan trọng cả. Khi biết thế thì tâm không khởi động niệm tức là tâm không dính mắc. Nên nhớ tâm không khởi vọng niệm và không phân biệt thì đây chính là chân tâm vậy. Âm thanh thì cũng thế. Khi nghe tiếng nhạc êm đềm hay lời khen, tiếng chê thị phi mà tâm không khởi vọng niệm phân biệt tức là ta không bị si mê hay tức giận thì tâm không dính mắc.Cái cạm bẩy trên thế gian nầy lúc nào vẫn là Tham-Sân-Si làm cho cuộc sống trở thành điên đảo. Không dính mắc là biết buông xả và không chạy theo tham dục nên không bị con rắn Tham-Sân-Si hành hạ. Nên nhớ tai và mắt là hai căn rất bén nhạy và nó chính là hai cánh cửa lớn để thâu nhập vọng niệm từ bên ngoài. Còn lưỡi nếm những thức ăn ngon làm ta thích và thức ăn không ngon làm ta bực bội, không vui. Không dính mắc là ăn để sống chớ không phải ăn để gây ra phiền não. Ngày nào chúng ta còn thích món nầy hay không thích món nọ là ngày ấy tâm còn dính mắc. Nhắc lại ngày xưa Đức Phật hằng ngày đi khất thực thì Ngài thọ dụng bất cứ những gì chúng sinh cúng dường mà tâm luôn thường trụ Niết Bàn có nghĩa là bất cứ món nào Ngài ăn cũng ngon, miễn sao no bụng là xong.Tấm thân của con người theo tinh thần Phật giáo cũng như chiếc bè dùng để qua bờ bên kia. Chúng ta ăn uống để nuôi thân cũng như tu bổ chiếc bè đừng cho đổ bể chớ đừng sơn son thép vàng mà quên đi cứu cánh là bến bờ bên kia chớ không phải chiếc bè. Vì thế nếu cung phụng cho thân tức là tham có nghĩa là tâm vẫn còn dính mắc. Còn khứu giác thì sao? Con người lúc nào cũng có khuynh hướng thưởng thức hương vị thơm ngon. Mùi thơm của hoa dạ lý, hoa lan hoặc hoa hồng làm cho con người sảng khoái và thích thú. Khi ngữi mùi hoa thơm thì lòng tê tái, sung sướng muốn hái nó đem cắm trong phòng của mình. Thế thì từ lòng si mê biến thành lòng tham muốn chiếm hữu. Chẳng hạn như khi thấy mâm cơm trên bàn mà ngữi thấy đồ ăn thơm ngon thì lòng tham nổi dậy muốn ăn cho nhiều, cho thật no. Còn ngữi không thơm ngon thì đâm chán ghét, muốn đánh đổ nó đi. Vì thế một khi con người còn muốn thỏa mãn khứu giác của mình là tâm vẫn còn dính mắc.Từ trước đến nay cái nghe của chúng ta là dựa theo âm thanh bên ngoài. Vì cái nghe duyên theo âm thanh bên ngoài nên được gọi là tùy lưu có nghĩa là trôi theo giòng bên ngoài. Bây giờ nếu chúng ta không trôi theo theo giòng bên ngoài mà chỉ nhớ đến tánh nghe mà tánh nghe thì không có tướng mạo và trùm phắp mười phương nên không bị hạn chế hay ngăn cách thì dĩ nhiên tâm không còn bị dính mắc. Mắt thì cũng thế, đừng để thị giác duyên theo sắc trần mà chỉ quay về với tánh thấy thì tâm không bị dính mắc.Về sau Tổ Lâm Tế và những vị Tổ khác cũng không thích ngồi thiền mà chỉ hồi quang phản chiếu mà thôi. Vì thế khi giảng pháp cho đồ chúng thì ngài hỏi:”Người đang nghe pháp đây là ai?”. Ý của Tổ Lâm Tế là sáu căn của con người là sáu cánh cửa để tiếp nhận gió lục trần. Nếu con người biết dùng tánh nghe, tánh thấy, tánh ngữi, tánh nếm…mà không bị dính mắc thì người đó đang sống với cái tánh chân thật của mình tức là họ đang ngồi thiền vậy. Người nào đạt được trình độ như vậy dù ngồi giữa chợ cũng vẫn thiền như thường. Thật ra sống trong thế kỷ 21 nầy thì phương pháp thiền mà không thiền của Lục Tổ rất hữu ích và có thể áp dụng được trong cuộc sống thường nhật ở bất cứ nơi nào cho tất cả chúng sinh. Khi một thiền giả chỉ đợi đến một giờ nhất định mới đi tọa thiền, khi thiền thì yên lặng theo dõi từng hơi thở để cho tâm hoàn toàn tĩnh lặng, tự chủ và an lạc. Nhưng khi xã thiền và đối diện với cuộc sống xô bồ xáo trộn thì họ đánh mất tính tự chủ và tâm thanh tịnh của mình. Thêm nữa, trong thiền phòng, thiền giả đi thiền hành từng bước chậm rãi, khoan thai và có ý thức nhưng trong cuộc sống ngoài đời từ trong gia đình, chợ búa, công sở…thì họ trở thành một con người khác, đi đứng một cách hồ đồ, vội vã như bị ma đuổi vì họ không còn giữ được chánh niệm bởi vì vọng niệm đua nhau quấy phá và giết chết tâm thanh tịnh của họ.Do đó nếu chúng ta muốn trở về với tâm thanh tịnh thì có thể áp dụng phương pháp phản quang tự kỷ tức là dùng thiền định để làm cho tâm được an định trong một thời gian nhất định là 15 phút cho đến một giờ rồi sau đó nới rộng cái tâm an định nầy trong suốt 24 tiếng đồng hồ bằng cách luôn giữ Chánh Niệm thì cũng tìm được sự an vui tự tại. Hoặc là lúc nào cũng thức tỉnh để có đủ nghị lực sáng suốt hầu ngăn chận sáu căn không cho dính mắc nơi sáu trần. Chúng ta có thể áp dụng phương pháp hồi quang phản chiếu để sống với cái tánh giác chân thật thanh tịnh đầy đủ của mình. Khi tự tánh trong sáng được thể hiện thì nó sẽ mang lại sự an lạc, yên vui và chính sự thức tỉnh kiến tánh nầy sẽ là kinh nghiệm mà mình có thể sống mãi trong đó, không bao giờ chấm dứt.Con người sống trong thế gian nầy thì hằng ngày lục căn tiếp xúc với lục trần mà ba cánh cửa chính là Thân-Khẩu-Ý luôn luôn phát khởi để tạo ra nghiệp. Nhưng trên thực tế thì tuy thân khẩu ý tác tạo nhưng cội nguồn vẫn phát xuất từ tâm. Khi chúng ta muốn mắng chửi người nào thì trước nhất chúng ta phải có những ý niệm không tốt về người nầy và sau đó tâm mới phát họa thêm ra những hình ảnh xấu để chúng ta ghét họ và sau cùng mới đánh chửi họ được. Thế thì tất cả những tội nghiệp mà chúng ta đã gây ra đều phát xuất từ tâm. Nhưng tâm là Tướng tức là không thật. Nếu tâm không thật thì tội nghiệp làm gì có thật? Đức Phật dạy thêm rằng:”tội nghiệp từ tâm sanh, cũng từ tâm diệt”.Nếu chúng ta nghĩ rằng nếu mình có gây ra tội nghiệp thật thì sẽ có quả báo thật. Nói như thế có nghĩa là chúng ta xác nhận tâm là thật, tội nghiệp cũng thật và dĩ nhiên quả báo cũng là thật. Nhưng tâm là vọng tưởng chứ đâu có thật. Chỉ có Thể là thật tánh, là chân như thanh tịnh mới là thật. Do đó nếu tâm không thật, tội nghiệp cũng không thật thì quả báo làm sao có thật? Nói như vậy có nghĩa là gốc của tội nghiệp phát xuất từ tâm mà tâm nầy chính là tâm sinh diệt tức là tâm nghĩ thiện, nghĩ ác, nghĩ tốt, nghĩ xấu mà thôi. Biết tâm là sinh diệt thì con người phải quay về tâm để trừ cái sinh diệt nầy thì làm gì còn tội nghiệp. Thí dụ như hiện nay ta đang oán hận ai và muốn tìm cách để hảm hại hay tiêu diệt người nầy. Muốn hại người là do tâm. Bày mưu lập chước để hại người cũng bởi do tâm. Nếu biết thức tỉnh quay về dập tắt cái tâm cuồng loạn nầy thì tâm bất thiện không còn nữa. Vì thế tâm diệt thì tội nghiệp cũng theo đó mà diệt.Nếu dựa theo Lục Tổ là tâm của chúng ta không nghĩ thiện, không nghĩ ác, buông xả hết tất cả thì cái tâm sinh diệt sẽ được yên lặng. Tâm mà yên lặng thì tự tánh sẽ hiện bày để giúp con người sống yên vui thanh tịnh. Tâm kinh lại dạy rằng ngũ uẩn giai không tức là thân nầy không thật. Thân của chúng ta không thật vì thân nầy là do trùng trùng duyên khởi hợp lại mà thành. Thân thì không thật mà hành động tạo tác phát xuất từ thân nên cũng hư dối. Một khi hành động không thật thì tội nghiệp do thân tạo ra làm sao thật được? Vì thế thiền sư Huyền Giác mới có câu:Liễu tức nghiệp chướng bổn lai khôngVị liễu ưng tu thường túc trái.Dịch là:Liễu ngộ tức nghiệp chướng xưa nay khôngChưa liễu ngộ cần phải đền nợ trước.Đối với các bậc liễu ngộ thì họ thấy các pháp duyên hợp thì không thật. Mà thân nầy chính là do pháp duyên hợp nên thân là hư dối. Hành động tạo tác phát xuất từ thân thì lại càng không thật. Do đó họ thấy rằng hành động không thật thì nghiệp do hành động tạo thành làm sao thật được? Bởi biết nghiệp không thật nên họ xem thường và không quan trọng vì thế nếu nghiệp có đến thì họ xem cũng như trò chơi chả có gì phải kinh hoàng sợ hãi. Khi vua Kế Tân muốn giết hại Tổ Sư Tử nên cầm dao đến trước mặt Tổ mà nói rằng:- Có thật ngài thấy ngũ uẩn giai không chăng?Tổ đáp:- Đúng vậy.Vua nói thêm:- Nếu thế ngài có thể cho tôi cái đầu được không?Tổ đáp:- Năm uẩn đã không sá gì cái đầu.Nhà vua liền chặt đầu ngài.Đối với cái nhìn của chúng ta thì cái chết của Tổ Sư Tử chẳng qua là để trả nghiệp. Luật nghiệp quả không sót một ai cho dù kẻ đó là người chứng đạo. Trường hợp nầy cũng giống như tôn giả Mục Kiền Liên bị bọn ngoại đạo lăn đá trên núi cao đè chết mặc dù tôn giả là đệ nhất thần thông hay là ngài Huệ Khả bị giết trong khám. Nhưng thật ra dưới mắt của người ngộ đạo thì nghiệp là hư dối, không thật thì làm gì có chuyện trả nghiệp. Thân là giả thì nghiệp cũng không thật nên họ thong dong tự tại không vướng mắc, lo âu hay sợ hãi.Nên nhớ thân không thật, hành động không thật và tội nghiệp cũng không thật nhưng không phải là không Có, tất cả chỉ là hiện tượng duyên sinh nên không thật Có. Vì thế tội nghiệp tuy không thật mà chẳng mất.Ngày xưa ngài Tăng Xán bị bệnh cùi rất đau khổ nghe danh Tổ Huệ Khả nên đến nghe pháp. Khi gặp Tổ thì ngài thưa:- Bạch Hòa Thượng! con nghiệp chướng nặng nề nên phải mang bệnh nan y xin Hòa thượng dạy con phương pháp sám hối.Tổ Huệ Khả cũng dùng thuật của Tổ Bồ Đề Đạt Ma khi xưa nên nhìn thẳng vào mặt Tăng Xán mà nói rằng:- Đem tội nghiệp ra, Ta sẽ sám cho.Ngài Tăng Xán quay lại tìm nhưng tìm mãi mà không thấy tội nghiệp ở đâu nên thưa:- Bạch Hòa thượng! Con tìm tội không được.Tổ Huệ Khả bảo:- Ta đã sám hối cho ngươi rồi đó.Ngài Tăng Xán quay lại tìm tội nghiệp của mình mà lúc đó ngài cho là thật, nhưng càng tìm thì càng không thấy tâm dạng của nó ở đâu. Vì ngài thấy tội nghiệp là thật mới sanh ra bệnh cùi bây giờ tìm thì lại không thấy nó nữa. Như vậy tội nghiệp có hay không? Nếu không thì làm sao lại mang bệnh còn nếu có thì nó ở đâu? Khi ngài Tăng Xán tìm mà không thấy tội nghiệp thì tội nghiệp nay biến thành không. Một khi tội nghiệp đã không thì hiện tượng quả báo đang chịu đó làm sao có thật? Vì thế cái gốc của tội nghiệp vốn không thì tất cả tướng tội nghiệp cũng theo đó mà tiêu diệt hết. Khi hiểu được như thế thì bệnh cùi của ngài Tăng Xán từ từ tan biến và về sau trở thành Tổ thứ ba của Trung Quốc.Còn chúng ta thì cũng thế. Khi mang bệnh trầm kha hay gặp chuyện hiểm nghèo thì hảy cố tìm xem chỗ nào mà sanh ra bệnh hoạn hay chuyện trắc trở. Nếu tìm không được tội nghiệp thì bệnh sẽ lành còn tìm ra nó thế nầy thế kia thì tội nghiệp chưa hết. Tội nghiệp còn thì đau khổ sẽ còn và dĩ nhiên sám hối là phương pháp để hòa giải oan gia nghiệp báo kia.Con người sống trong bất cứ xã hội nào thì hoàn cảnh chung quanh dễ dàng ảnh hưởng để làm cho con người tạo nghiệp. Như khi sanh ra chúng ta đâu có ghiền cà phê, thuốc lá hay rượu chè cờ bạc. Do đó khởi nguyên không có mà sau đó mọi đau khổ đều do chính mình chủ động tạo ra. Nhưng Phật dạy:”nghiệp tánh bổn không” có nghĩa là tánh nó vốn không thì làm gì có nghiệp. Vì thế một khi con người tìm thấy tội nghiệp tức là còn thấy cái nhân gây ra nghiệp có nghĩa là còn thói hư, tật xấu. Nếu không tìm thấy tội nghiệp tức là buông xả hết thói hư, tật xấu làm căn gây ra nghiệp thì nghiệp đâu còn. Không thấy tội nghiệp tức là không chạy theo vọng trần mà sống với tánh giác của mình.Câu chuyện ngài Đạo Tín lúc ấy mới mười bốn tuổi tìm tới gặp Tổ Tăng Xán mà thưa rằng:- Kính bạch Hòa thượng! xin Hòa thượng dạy cho con pháp môn giải thoát.Tổ Tăng Xán bảo:- Ai trói buộc ngươi?- Không ai trói buộc con.Tổ bảo:- Không ai trói buộc thì cầu giải thoát để làm gì?Chúng ta thường hay có thói quen là nghĩ rằng nghiệp dẫn dắt chúng sinh đi trong sanh tử luân hồi. Vì thế nghiệp chính là cái đã trói buộc mình. Nhưng nghiệp có thật không? Nếu nghiệp là thật thì chúng ta đã tìm thấy, nhưng có ai thấy được nghiệp của mình đâu? Như thế thì nghiệp không thật nên tìm không thấy. Nếu nghiệp không thật thì làm sao dám kết luận là nghiệp trói buộc mình. Do đó khi biết nghiệp không thật nên hết trói buộc tức là giải thoát. Nói một cách khác là nếu con người làm chủ được mình có nghĩa là không còn chạy theo thói hư tất xấu mà cái gốc của nó là suy nghĩ, phân biệt, đối đãi để có cơ hội tạo nghiệp thì nghiệp đâu còn tức là chúng ta được giải thoát vậy.Ví như ngày xưa khi chúng ta chưa học đạo, nếu có người làm việc gì sai quấy làm tổn thương đến danh dự và gia đình của chúng ta thì dĩ nhiên chúng ta mắng chửi họ một cách thậm tệ. Một thời gian sau thì người bị mắng chửi kia tìm đến để mắng chửi trả thù. Bây giờ đến lượt ông ta mắng chữi chúng ta rất thậm tệ. Đây chẳng qua là nhân quả mà thôi. Như thế đây có phải trả nợ trước hay không? Khi đã biết đạo thì thấy lời mắng chửi kia không thật, không có gì quan trọng nên chúng ta vẫn bình thản tươi cười. Thật ra nợ đã vay thì phải trả, chỉ khác là người mê thì thấy thật còn người ngộ thì thấy là hư dối. Mà nghiệp đã không thật thì trả cũng như không trả, không có gì quan trọng cả.Vì thế khi biết rằng:”nghiệp tánh bổn không” tức là thân không thật, hành động do thân tác tạo cũng không thật thì dĩ nhiên nghiệp báo cũng là hư dối, không thật. Mà nghiệp không thật thì còn cái gì trói buộc, làm khổ chúng ta cho nên từ đây cuộc sống của con người sẽ được an vui tự tại và hoàn toàn giải thoát ra khỏi mọi hệ lụy của phiền não khổ đau.“Khi nghiệp chướng tới thì phiền não khởi. Cũng như khi không giữ chánh niệm thì tà niệm khởi. Lúc ấy, bạn thấy người nào cũng không hợp nhãn; thấy việc gì cũng chẳng vừa lòng. Thật ra, không cần biết bạn có lý hay vô lý, hễ bạn khởi phiền não là bạn đã sai lầm rồi đó”.