Thursday, April 21, 2011

Dưa Leo:Đuổi Kiến

Bai này rât huu ich, dung bo qua.
Muà hè kien hay bo vào nhà rât nhiêu. Làm sao mà kien bo di. cat vài lat dua leo dê doc theo trail cua kiên bo, bo qua bo lai ca ngày, nhung qua hôm sau, kiên di biêt tich luôn ca nam.
Minh cu làm nhu vây môi khi hè dên, cu dung dua leo mà không cân phai xài thuôc diêt kiên rât dôc.

DƯA LEO

Tài liệu về quả dưa leo này đã được đăng tải trên tờ The New York Times vài tuần trước đây, một tờ báo thường giới thiệu những phương pháp khá sáng tạo và lạ lùng, để giải quyết những vấn đề thông thường. Sau đây là những khám phá thú vị về quả Dưa leo :
1/ Dưa leo chứa rất nhiều loại sinh tố mà chúng ta cần mỗi ngày như Vit. B1, B2, B3, B5, B6, Calcium, Iron, Magnesium, Phosphorus, Potassium, and Zinc.
2/ Khi cảm thấy mệt mỏi vào buổi trưa, quí vị hãy để qua một bên các loại thức uống có cà phê, và hãy chọn lấy một quả dưa leo. Dưa leo có các loại Vitamin B, và Carbohydrates, có khả năng làm quí vị hưng phấn trở lại được vài giờ đồng hồ.
3/ Khi chiếc gương trong phòng tắm bị mờ đi vì hơi nước, quí vị hãy dùng một lát dưa leo, thoa dọc theo gương, chỉ trong chốc lát, gương sẽ trong lại và tỏa ra một mùi thơm tựa như quí vị đang ở trong phòng tắm hơi.
4/ Khi loài ấu trùng và ốc sên đang hủy hoại những luống cây ngoài vườn nhà, quí vị hãy đặt vài lát dưa leo vào trong một lon đồ hộp nhỏ, vườn của quí vị sẽ không còn những loài sâu hay ốc sên phá hoại trong suốt vài tháng trời.Lý do là vì những hóa chất trong dưa leo phản ứng với chất nhôm của lon đồ hộp, sẽ tỏa ra một mùi hương mà con người không thể cảm nhận được, nhưng lại khiến cho các loài côn trùng khiếp sợ và bỏ chạy khỏi vườn.
5/ Quí vị đang muốn tìm một cách nhanh chóng và dễ dàng nhất để loại trừ những tế bào mỡ trên da (cellulite) trước khi vào hay bước ra khỏi hồ tắm ? Hãy thoa một hay hai lát dưa leo trên những vùng da quí vị muốn. Các hóa chất thực vật sẽ khiến cho lớp collagen trên da trở nên săn chắc và do đó, khiến cho cellulite trên da khó nhìn thấy. Cách này cũng tác dụng rất tốt trên các nếp nhăn nữa.
6/ Quí vị muốn tránh cảm giác choáng váng hay nhức đầu dữ dội sau khi uống rượu chăng ? Hãy ăn vài lát dưa leo trước khi đi ngủ. Khi thức dậy, quí vị sẽ thấy tỉnh táo và hết nhức đầu. Dưa leo chứa một lượng đường vừa đủ, các loại vitamin B, và các chất điện giải để tái bổ sung những tinh chất sinh tố cần thiết mà cơ thể đã bị mất đi, hầu tái lập sự cân bằng, xua tan cảm giác choáng váng hay nhức đầu.
7/ Quí vị muốn tránh một bữa ăn trưa, hay ăn tối thịnh soạn chăng ? Dưa leo đã được dùng hàng thế kỷ nay, ngay cả bởi những người giăng bẫy thú rừng, các nhà buôn, các nhà khai phá Âu châu khi muốn có một bữa ăn nhanh, họ đã ăn dưa leo để không còn cảm giác đói bụng nữa.
8/ Quí vị sắp có một cuộc họp quan trọng, hay một cuộc phỏng vấn tìm việc làm, nhưng lại không đủ thời gian để đánh bóng đôi giầy của mình. Hãy thoa một lát dưa leo tươi lên giầy, hóa chất của dưa leo sẽ khiến giầy bóng lên, tuy không thật hoàn hảo nhưng cũng có tác dụng chống thấm nước.
9/ Trong nhà quí vị không có loại dầu chống rỉ sét WD 40, nhưng lại đang cần loại trừ tiếng kẽo kẹt từ bản lề của cửa ra vào. Hãy dùng một lát dưa leo chùi chung quanh bản lề đó, cửa sẽ không còn tiếng kẽo kẹt nữa.
10/ Quá căng thẳng nhưng lại không có thời gian để massage hay ghé vào spa, quí vị hãy cắt hết một quả dưa leo, cho vào một bình nước sôi, rồi hé mở nắp đậy, để cho hơi nóng thoát ra ngoài. Các hóa chất và dưỡng chất từ dưa leo sẽ tác dụng với nước sôi và tỏa ra một làn hương làm dịu đi sự căng thẳng, và tạo ra một cảm giác rất thoải mái
11/ Quí vị vừa xong một bữa ăn trưa với các đồng nghiệp, và chợt nhớ mình không có chewing gum hay kẹo the. Hãy cắt một lát dưa leo, rồi đặt sát vòm miệng trên chỉ độ 30 giây thôi, hơi thở sẽ thơm tho như ý muốn, vì các hóa chất thực vật của dưa leo sẽ tiêu diệt các loại vi trùng, vốn là nguyên nhân gây nên bệnh hôi miệng.
12/ Quí vị muốn lau chùi muỗng nỉa, sinks, hay các đồ dùng kim loại không rỉ sét ? Hãy dùng một lát dưa leo lau chùi các vật dụng trên, không chỉ làm mất đi những vết lu mờ lâu năm và làm sáng bóng trở lại, mà còn không để lại các vết sọc, và cũng không làm hư hại ngón tay cũng như móng tay của quí vị vì việc lau chùi nữa.
13/ Quí vị đang viết bút mực và bị lỗi khi viết. Hãy lấy lớp vỏ dưa leo, và nhẹ nhàng tẩy vết mực muốn tẩy. Cũng rất công hiệu khi tẩy vết bút chì, và những vết mực mầu trang trí mà các trẻ em vẽ lung tung trên tường.
Đây là những phương cách hiệu quả và an toàn, giải quyết được những vấn đề hàng ngày. Qúi vị hãy áp dụng và giới thiệu cho những người quen biết của mình nhé.
Thụy Trinh sưu tầm.

Wednesday, April 20, 2011

Lăng Gìa-Chương Hai:VÔ THƯỜNG

QUYỂN BỐN
CHƯƠNG IIIVÔ THƯỜNG (anityatìparivatro Màmattrìyah)
Tiết I
Bấy giờ Phật bảo Đại huệ Bồ tát đại hữu tình:
Nay ta sẽ vì ông nói các tướng sai biệt của thân do ý sinh. Ông hãy nghe kỹ, khéo suy nghĩ.
Xin vâng, bạch Thế Tôn.
Này Đại huệ ! Thân do ý sinh có 3 loại, ấy là: 1. Nhập tam muội ý sinh thân là thân do nhập pháp lạc tam muội mà thành. 2. Giác pháp tự tính ý sinh thân, là thân do biết rõ tự tính các pháp mà thành. 3. Chủng loại câu sinh vô tác hành ý sinh thân, là thân sinh ra theo đủ các loài nhưng không có tác hành. Các bậc tu hành nhập sơ địa rồi dần chứng được các thân ấy. Đại huệ ! Sao gọi là thân do nhập pháp lạc tam muội thành? Ấy là , ở các địa thứ 3, 4, 5, không tam muội lìa hết thảy phân biệt, tâm tịch nhiên bất động, biển tâm không khởi sóng chuyển thức, hiểu rõ các cảnh tượng đều do tâm hiện, thật ra không có gì, ấy là thân do nhập pháp lạc tam muội mà sinh. Sao là thân "Giác pháp tự tính"? Ấy là ở địa thứ 8 liễu tri các pháp như huyễn, không tướng, tâm chuyển các thức sở y, an trú định như huyễn và các định khác, có thể hiện vô lượng thần thông tự tại, như hoa nở, mau như ý khởi, như huyễn như mộng như bóng như hình, không phải do tứ đại tạo mà giống như do tứ đại tạo, các sắc tướng trang nghiêm đầy đủ, vào khắp các cõi Phật, hiểu rõ tự tính các pháp, ấy cũng là thân do giác ngộ tự tính các pháp mà sinh. Sao gọi là thân "chủng loại câu sinh vô tác hành"? Ấy là hiểu rõ tướng các pháp do chư Phật chứng đắc. Đại huệ ! Ông nên siêng quán sát ba loại thân ấy. Bấy giờ Thế Tôn lại nói bài tụng:
Đại thừa ta không thừa
Không tiếng cũng không lời
Không chân lý, giải thoát
Cũng không cảnh, vô tướng
Nhưng thừa ma ha diễn
Tam ma đề tự tại
Các loại thân ý sinh
Hoa tự tại trang nghiêm.
Đại huệ lại bạch Phật:
Bạch Thế Tôn! Như Thế Tôn nói có năm nghiệp vô gián (pancànantanya). Năm nghiệp ấy là gì, mà nếu làm thì đọa liền vào A tỳ địa ngục?
Ông hãy nghe, ta sẽ nói cho.
Xin vâng, bạch Thế Tôn.
Năm tội vô gián là: giết mẹ, giết cha, giết A la hán, phá hòa hiệp tăng, ôm lòng ác độc gây đổ máu thân Phật. Đại huệ ! Sao gọi là mẹ chúng sinh? Ấy là ái dục đưa đến sinh sản cùng ham vui v.v.. đều như mẹ nuôi dưỡng tất cả. Cha là gì? Là vô minh khiến sinh vào sáu xóm làng (dục giới); cắt đức hai cội gốc ấy gọi là giết cha mẹ. Sao là giết A la hán? Ấy là các tùy miên xem như kẻ thù, như độc của chuột sinh, tận diệt chúng gọi là giết A la hán. Sao là phá hòa hiệp tăng? Là các tướng khác nhau của các uẩn nhóm họp, đoạn trừ chúng gọi là phá hòa hiệp tăng. Sao gọi là ác tâm gây đổ máu thân Phật? Là thân 8 thức vọng sinh tư duy hiểu biết, thấy có tự tướng cọng tướng ngoài tâm, dùng tâm vô lậu, ba giải thoát mà diệt trừ thân Phật 8 thức, ấy gọi là ác tâm đổ máu thân Phật. Đại huệ! ấy là năm tội vô gián bên trong, nếu có người làm, liền có sự vô gián của hiện chứng thật pháp. Lại nữa, Đại huệ này ! Ta sẽ nói cho ông năm tội vô gián ở ngoài, khiến ông và các Bồ tát nghe xong đời sau không sinh nghi hoặc. Sao gọi là năm vô gián ở ngoài? Là nghe các tội vô gián nói trong các kinh khác, nếu có tác giả, thì không thể hiện chứng được ba giải thoát, chỉ trừ Như lai, các đại Bồ tát và đại thanh văn. Thấy những người tạo nghiệp vô gián, vì muốn khiến họ sửa lỗi nên dùng thần thông chỉ ra các việc đồng như vậy. Những kẻ kia liền sám hối mà được giải thoát. Đấy đều là hóa hiện, không thật có. Nếu có kẻ thực sự tạo nghiệp vô gián, thì suốt đời Phật không hiện thân cho họ giải thoát, chỉ trừ khi họ giác ngộ được thân, tài sản, chỗ ở đều do tâm tạo, lìa kiến chấp phân biệt ngã, ngã sở hoặc đời sau thọ sinh các nơi khác gặp thiện tri thức lìa được lỗi lầm phân biệt.
Thế Tôn lại nói bài tụng:
Tham ái gọi là mẹ
Vô minh ấy là cha
Thức rõ nơi cảnh giới
Thì đấy gọi là Phật
Tùy miên là La hán
Các uẩn, hòa hiệp tăng
Đoạn các vô gián ấy
Gọi là nghiệp vô gián.
Bấy giờ Đại huệ Bồ tát lại bạch Phật rằng:
Bạch Thế Tôn ! Xin vì con nói thể tính của chư Phật.
Đại huệ ! hiểu rõ hai vô ngã, trừ hai chướng ngại, lìa hai chết, dứt hai phiền não, ấy là thể tính Phật. Đại huệ ! Thanh văn duyên giác được các pháp ấy rồi cũng gọi là Phật. Ta vì nghĩa ấy mà chỉ nói một thừa.
Khi ấy Thế Tôn nói bài tụng:
Biết rõ hai vô ngã
Trừ hai chướng hai não
Cùng bất tư nghì tử
Nên gọi là Như lai.
Đại huệ Bồ tát lại bạch Phật:
Bạch Thế Tôn! Như lai do mật ý gì mà nói cùng đại chúng những lời này: Ta là hết thảy Phật quá khứ, và nói trăm ngàn chuyện tiền thân: Ta vào thời ấy làm vua Đảnh sinh, làm voi lớn, làm chim Anh vũ, Nguyệt quang, Diệu nhãn v.v..
Đại huệ ! Đức Như lai ứng chính đẳng giá, do nơi bí mật tứ bình đẳng mà nói với đại chúng những lời như vầy: Ta thuở xưa làm Phật câu lưu tôn, Phật câu na hàm mâu ni, Phật ca diếp. Sao gọi là bốn? ấy là 1. Tự bình đẳng, 2. Ngữ bình đẳng, 3. thân bình đẳng, 4. pháp bình đẳng. Sao gọi là tự bình đẳng? Ấy là: Ta gọi là Phật, tất cả các đức Như lai cũng gọi là Phật. Danh tự không khác nên gọi là tự bình đẳng. Ngữ bình đẳng là, ta nói được 64 phạm âm, chư Như lai cũng vậy, phạm âm như tiếng Ca lăng tần già không tăng không giảm không sai biệt, nên gọi là ngữ bình đẳng. Thân bình đẳng là ta với chư Phật, pháp thân sắc tướng cùng các tướng tốt tướng phụ đều không khác, chỉ trừ khi vì điều phục các loài chúng sinh mà thị hiện các loại thân khác nhau, ấy là thân bình đẳng. Pháp bình đẳng là, ta và chư Phật đồng chứng 37 pháp bồ đề phần. Cho nên Như lai Ứng chính đẳng giác nói với đại chúng những lời như vậy. Khi ấy Thế Tôn nói bài tụng:
Ca diếp, Câu lưu tôn
Câu na hàm là ta
Do bốn thứ bình đẳng
Mà nói lời như vậy.
Đại huệ Bồ tát lại bạch:
Bạch Thế Tôn ! Thế tôn dạy: Khoảng thời gian từ đêm thành đạo cho đến khi nhập niết bàn ta không hề nói một chữ, không đã nói cũng không sẽ nói, vì không nói ấy mới là Phật nói". Bạch Thế Tôn ! Do mật ý gì mà dạy lời ấy?
Do hai pháp bí mật mà nói lời ấy. Hai pháp ấy là gì? Là tự chứng pháp (pratyàmadharmatà) và bản trú pháp (paurànasthitidharmatà). Sao gọi là tự chứng pháp? Ấy là pháp chư Phật chứng ta cũng chứng hệt như vậy không thêm bớt, cảnh giới của tự chứng trí vốn lìa tướng ngôn thuyết, tướng phân biệt, tướng danh tự. Sao gọi là bản trú pháp? ấy là, bản tính pháp giống như vàng trong mỏ, dù Phật có ra đời hay không có ra đời, pháp vẫn ở ngôi vị của pháp, pháp giới pháp tính đều thường trú. Đại huệ ! Thí như có người đi trong khoảng đồng rộng, thấy có con đường cũ bằng phẳng dẫn vào một ngôi cổ thành, liền theo đường ấy vào nghỉ ngơi vui thú. Đại huệ ! Ý ông nghĩ sao? người kia có làm ra con đường ấy và các thứ trong thành chăng?
Bạch Thế Tôn, không !
Đại huệ ! Chân như và pháp tính thường trú mà ta cùng các Phật chứng được cũng như vậy, cho nên nói từ khi thành Phật cho đến khi Niết bàn, ta không nói một lời nào, không đã nói cũng không sẽ nói.
Khi ấy Thế Tôn lại nói bài tụng:
Từ đêm thành chính giác
Đến đêm vào Niết bàn
Giữa hai thời gian ấy
Ta đều không nói gì
Pháp bản trú tự chứng
Nên nói mật ngữ này
Ta cùng chư Như lai
Không có chút sai biệt

Tuesday, April 19, 2011

Tam Thân Phật-Pháp Thân, Hóa Thân, Ứng Thân

Tam thân
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bước tới: menu, tìm kiếm
Tam thân (zh. 三身, sa. trikāya) là một thuật ngữ được dùng trong Phật giáo Đại thừa (sa. mahāyāna), chỉ ba loại thân của một vị Phật. Quan điểm này xuất phát từ tư tưởng cho rằng Phật—như một nhân vật đã xuất hiện trên thế gian để hoằng hoá, tiếp độ chúng sinh—chính là biểu hiện của cái Tuyệt đối, của Chân như và Phật có khi hiện thân thành nhiều hình tướng khác nhau chỉ vì lợi ích của chúng sinh. Quan niệm Tam thân Phật được nêu ra nhằm nói lên quan điểm đó.
Tam thân gồm:
Pháp thân (zh. 法身, sa. dharmakāya), là thể tính thật sự của Phật, đồng nghĩa với Chân như, là thể của vũ trụ. Pháp thân là thể mà Phật và chúng sinh đều có chung. Pháp thân cũng chính là Pháp (sa. dharma), là quy luật vận hành trong vũ trụ, là giáo pháp do đức Phật truyền dạy. Phật xuất hiện trên trái đất, với nhân trạng, với mục đích cứu độ con người. Pháp thân được xem chính là Phật pháp (sa. buddha-dharma) như Phật Thích-ca giảng dạy trong thời còn tại thế. Sau này người ta mới nói đến hai thân kia. Pháp thân được xem là thường hằng, vô tướng, nhất nguyên, là thể tính chung của các vị Phật, là dạng tồn tại thật sự của chư Phật. Pháp thân có nhiều tên gọi khác nhau, tuỳ trường hợp sử dụng. Có lúc người ta xem nó là thể tính của mọi sự, là Pháp giới (sa. dharmadhātu, dharmatā), là Chân như (sa. tathatā, bhūtatathatā), là tính Không (sa. śūnyatā), A-lại-da thức (sa. ālayavijñāna), hay xem nó là Phật, Phật tính (sa. buddhatā), là Như Lai tạng (sa. tathāgatagarbha). Trong nhiều trường phái, người ta xem Pháp thân là thể trừu tượng không có nhân trạng, có trường phái khác lại xem Pháp thân hầu như có nhân trạng (xem kinh Nhập Lăng-già, kinh Hoa nghiêm). Đạt trí huệ siêu việt đồng nghĩa với sự trực chứng được Pháp thân.
Báo thân (zh. 報身, sa. saṃbhogakāya), cũng được dịch là Thụ dụng thân (zh. 受用身), “thân của sự thụ hưởng công đức”: chỉ thân Phật xuất hiện trong các Tịnh độ. Báo thân là thân do thiện nghiệp và sự giác ngộ của các Bồ Tát mà hoá hiện cho thấy—cũng vì vậy mà có lúc được gọi là Thụ dụng thân, là thân hưởng thụ được qua những thiện nghiệp đã tạo. Báo thân thường mang Ba mươi hai tướng tốt (sa. dvātriṃśadvara-lakṣaṇa) và tám mươi vẻ đẹp của một vị Phật và chỉ Bồ Tát mới thấy được trong giai đoạn cuối cùng của Thập địa (sa. daśabhūmi). Người ta hay trình bày Báo thân Phật lúc ngồi thiền định và lúc giảng pháp Đại thừa. Các trường phái thuộc Tịnh độ tông cũng tin rằng Báo thân Phật thường xuất hiện trong các Tịnh độ.
Ứng thân (zh. 應身, sa. nirmāṇakāya), cũng được gọi là Ứng hoá thân hoặc Hoá thân, là thân Phật và Bồ Tát hiện diện trên trái đất. Ứng thân do Báo thân chiếu hiện, dựa trên lòng từ bi và có mục đích giáo hoá chúng sinh. Như thân người, Ứng thân chịu mọi đau khổ của già chết bệnh tật, nhưng Ứng thân có thần thông như thiên nhãn thông và thiên nhĩ thông. Sau khi chết, Ứng thân tự tiêu diệt.
Ba thân Phật nói ở trên có lẽ đầu tiên được Vô Trước (sa. asaṅga) trình bày rõ nhất, xuất phát từ quan điểm của Đại chúng bộ (sa. mahāsāṅghika) và về sau được Đại thừa tiếp nhận. Đáng chú ý nhất là quan điểm Pháp thân nhấn mạnh đến thể tính tuyệt đối của một vị Phật và không chú trọng lắm đến Ứng thân của vị Phật lịch sử. Như thế, Phật là thể tính thanh tịnh của toàn vũ trụ, thường hằng, toàn năng. Các vị Phật xuất hiện trên trái đất chính là hiện thân của Pháp thân, vì lòng từ bi mà đến với con người, vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
Với quan điểm Ba thân này người ta tiến tới khái niệm không gian vô tận với vô lượng thế giới. Trong các thế giới đó có vô số chúng sinh đã được giác ngộ, với vô số Phật và Bồ Tát.
Mục lục[ẩn]
1 Quan điểm Tam thân trong Thiền tông
2 Quan điểm Tam thân trong Kim cương thừa
3 Tham khảo
4 Xem thêm
[sửa] Quan điểm Tam thân trong Thiền tông
Đối với Thiền tông thì ba thân Phật là ba cấp của Chân như, nhưng liên hệ lẫn nhau trong một thể thống nhất. Pháp thân là “tâm thức” của vũ trụ, là thể tính nằm ngoài suy luận. Đó là nơi phát sinh tất cả, từ loài Hữu tình đến vô tình, tất cả những hoạt động thuộc tâm thức. Pháp thân đó hiện thân thành Phật Đại Nhật (sa. vairocana). Cũng theo Thiền tông thì Báo thân là tâm thức hỉ lạc khi đạt Giác ngộ, Kiến tính, ngộ được tâm chư Phật và tâm mình là một. Báo thân hiện thân thành Phật A-di-đà. Ứng thân là thân Phật hoá thành thân người, là Phật Thích-ca Mâu-ni.
Mối liên hệ của Ba thân Phật theo quan điểm Thiền tông được thí dụ như sau: nếu xem Pháp thân là toàn bộ kiến thức y học thì Báo thân là chương trình học tập của một y sĩ và Ứng thân là y sĩ đó áp dụng kiến thức y học mà chữa bệnh cho người.
[sửa] Quan điểm Tam thân trong Kim cương thừa
Trong Kim cương thừa thì Ba thân là ba cấp của kinh nghiệm giác ngộ. Chứng được Pháp thân chính là tri kiến được tự tính sâu xa nhất của muôn vật, và tự tính này chính là tính Không, trống rỗng. Báo thân và Ứng thân là thân của sắc giới, là phương tiện tạm thời giúp hành giả chứng ngộ được tính Không. Trong Phật giáo Tây Tạng, người ta xem Thân, khẩu, ý của một vị Đạo sư (sa. guru) đồng nghĩa với ba thân nói trên.
Trong Kim cương thừa, quan điểm Ba thân có mục đích phát biểu các tầng cấp khác nhau của kinh nghiệm giác ngộ. Pháp thân là tính Không, là Chân như tuyệt đối, bao trùm mọi sự, tự nó là Giác ngộ. Báo thân và Ứng thân là các thể có sắc tướng, được xem là phương tiện nhằm đạt tới kinh nghiệm về một cái tuyệt đối. Trong Phật giáo Tây Tạng, người ta xem thân, khẩu, ý của một vị đạo sư chính là Ba thân, được biểu tượng bằng thần chú OṂ-AH-HUNG (gọi theo tiếng Tây Tạng). Sức mạnh toàn năng của Pháp thân được thể hiện ở đây bằng Phổ Hiền (sa. samantabhadra). Các giáo pháp Đại thủ ấnĐại cứu cánh giúp hành giả đạt được kinh nghiệm về tâm thức vô tận của Pháp thân. Báo thân được xem là một dạng của “thân giáo hoá.” Các Báo thân xuất hiện dưới dạng Ngũ Như Lai và được xem là phương tiện để tiếp cận với Chân như tuyệt đối. Báo thân xuất hiện dưới nhiều hình tướng khác nhau, tịch tĩnh (sa. śānta) hay phẫn nộ (sa. krodha), có khi được trình bày với các vị Thần thể (bo. yidam) hay Hộ pháp (sa. dharmapāla).
Ứng thân là một dạng “thân giáo hoá” với nhân trạng. Trong Kim cương thừa, Ứng thân hay được hiểu là các vị Bồ Tát tái sinh (Châu-cô). Ba thân nêu trên không phải là ba trạng thái độc lập mà là biểu hiện của một đơn vị duy nhất, thỉnh thoảng được miêu tả bằng thân thứ tư là Tự tính (Tự nhiên) thân (sa. svābhāvikakāya). Trong một vài Tantra, thân thứ tư này được gọi là Đại lạc thân (sa. mahāsukhakāya).
[sửa] Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ Điển. Phật Quang Đại Từ Điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Das Lexikon der Östlichen Weisheitslehren, Bern 1986.
[sửa] Xem thêm

Diệu Pháp Liên Hoa Kinh.

Diệu pháp liên hoa kinh
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bước tới: menu, tìm kiếm
Thánh điển Phật giáo

Kinh
Bát-nhã kinh
Bát-nhã tâm kinh
Bát thiên tụng bát-nhã kinh
Kim Cương kinh
Tiểu phẩm bát-nhã kinh
Đại phẩm bát-nhã kinh
Đại Nhật kinh
Pháp Hoa kinh
Hoa Nghiêm kinh
Lăng-nghiêm kinh
A-di-đà kinh
Kim quang minh kinh
Tô tất đế yết la kinh
Thắng Man kinh
Thập địa kinh
Duy-ma-cật sở thuyết kinh
Giải thâm mật kinh
Nhập Lăng-già kinh
Niết bàn kinh
Lão Tử hóa hồ kinh
Bộ kinh & A-hàm kinh
Trường bộ
Trung bộ
Tăng chi bộ
Tiểu bộ
Tương ưng bộ
Từ kinh
Bản sinh kinh
Tứ niệm xứ kinh
Niết bàn kinh
Tịnh độ Tam Kinh
Phật thuyết vô lượng thọ kinh
Phật thuyết A Di Đà kinh
Quán vô lượng thọ kinh
Luận
A-tì-đạt-ma
Bảo tính luận
Bồ-đề đạo đăng luận
Câu-xá luận
Du-già sư địa luận
Duy thức nhị thập tụng
Đại thừa khởi tín luận
Nhập Bồ-đề hành luận
Nhiếp đại thừa luận
Tập Bồ Tát học luận
Nhiếp chân thật luận
Tập lượng luận
Thành duy thức luận
Trung quán luận
Thanh tịnh đạo luận
Diệu pháp liên hoa kinh (zh. 妙法蓮華經, sa. saddharmapuṇḍarīka-sūtra), cũng được gọi ngắn là kinh Pháp hoa, là một trong những bộ kinh Đại thừa quan trọng nhất, được lưu hành rộng rãi ở Trung Quốc, Nhật Bản, Tây TạngViệt Nam. Thiên Thai Tông lấy kinh này làm giáo pháp căn bản. Kinh này chứa đựng những quan điểm chủ yếu của Đại thừa Phật giáo, đó là giáo pháp về sự chuyển hoá của Phật tính và khả năng giải thoát. Kinh này được Phật giảng vào lúc cuối đời, được kết tập trong khoảng năm 200.
Kinh này được Phật giảng trên đỉnh Linh Thứu cho vô số người nghe gồm có nhiều loài khác nhau. Trong kinh này, Phật chỉ rõ, tuy có nhiều cách để giác ngộ, nhưng chúng chỉ là phương tiện nhất thời và thực tế chúng chỉ là một. Các phương tiện khác nhau như Thanh Văn thừa, Độc Giác thừa hay Bồ Tát thừa thật ra chỉ khác nhau vì phải cần phù hợp căn cơ của hành giả. Phật chỉ tuỳ cơ duyên, sử dụng các Phương tiện (sa. upāya) mà nói Tam thừa nhưng thật chất chỉ có Phật thừa (sa. buddhayāna) – nó dẫn đến Giác ngộ, bao trùm cả Đại thừa lẫn Tiểu thừa. Quan điểm này được làm sáng tỏ bằng ẩn dụ, trong đó một người cha muốn cứu những đứa con ra khỏi một cái nhà đang cháy. Vì những đứa trẻ không chịu nghe lời chạy ra khỏi nhà, người cha đành phải hứa với mỗi đứa cho một món quà tuỳ ý thích của chúng, đứa thì được con nai, con , xe trâu... để chúng chịu ra ngoài.
Kinh này còn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của Tín tâm (sa. śraddhā) trên bước đường giải thoát. Sau khi Phật giảng tới đó thì các vị Phật và Bồ Tát tuyên bố hỗ trợ kẻ tu hành để tăng phần tín tâm. Một phẩm quan trọng của kinh này với tên Phổ môn (zh. 普門品, phẩm 25) được dành cho Bồ Tát Quán Thế Âm. Trong phẩm này, vị Bồ Tát này nói rất rõ sự hộ trì của mình dành cho người tu học kinh Pháp hoa. Phẩm Phổ môn này được Phật tử Trung Quốc và Việt Nam đặc biệt ưa thích và tụng đọc. Sau đây là hai đoạn đầu của phẩm này theo bản dịch của Thích Trí Tịnh:
Lúc bấy giờ, ngài Vô Tận Ý Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu, chấp tay hướng Phật mà bạch rằng: "Thế Tôn! Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát do nhân duyên gì mà tên là Quán Thế Âm?"
Phật bảo ngài Vô Tận Ý Bồ Tát: "Thiện-nam-tử! Nếu có vô lượng trăm nghìn muôn ức chúng sanh chịu các khổ não, nghe Quán Thế Âm Bồ Tát này một lòng xưng danh. Quán Thế Âm Bồ Tát tức thì xem xét tiếng tăm kia, đều được giải thoát.
Nếu có người trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát này, dầu vào trong lửa lớn, lửa chẳng cháy được, vì do sức uy thần của Bồ Tát này được như vậy.
Nếu bị nước lớn làm trôi, xưng danh hiệu Bồ Tát này liền được chỗ cạn.
Nếu có trăm nghìn muôn ức chúng sanh vì tìm vàng, bạc, lưu ly, xa-cừ, mã-não, san-hô, hổ-phách, trân châu các thứ báu, vào trong biển lớn, giả sử gió lớn thổi ghe thuyền của kia trôi tắp nơi nước quỷ La-sát, trong ấy nếu có nhẫn đến một người xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, thì các người đó đều được thoát khỏi nạn quỷ La-sát. Do nhân duyên đó mà tên là Quán Thế Âm.
Nếu lại có người sắp sẽ bị hại, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, thì dao gậy của người cầm liền gãy từng khúc, người ấy liền được thoát khỏi.
Nếu quỷ Dạ-xoa cùng La-sát đầy trong cõi tam-thiên đại-thiên muốn đến hại người, nghe người xưng hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, thì các quỷ dữ đó còn không thể dùng mắt dữ mà nhìn người, huống lại làm hại được.
Dầu lại có người hoặc có tội, hoặc không tội, gông cùm xiềng xích trói buộc nơi thân, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát thảy đều đứt rã, liền được thoát khỏi.
Nếu kẻ oán tặc đầy trong cõi tam-thiên đại-thiên, có một vị thương chủ dắt các người buôn đem theo nhiều của báu, trải qua nơi đường hiểm trở, trong đó có một người xướng rằng: "Các Thiện nam tử! Chớ nên sợ sệt, các ông nên phải một lòng xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, vị Bồ Tát đó hay đem pháp vô-úy thí cho chúng sanh, các ông nếu xưng danh hiệu thì sẽ được thoát khỏi oán tặc nầy".
Các người buôn nghe rồi, đều lên tiếng xưng rằng: "Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát!" vì xưng danh hiệu Bồ Tát nên liền được thoát khỏi.
Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ Tát sức oai thần to lớn như thế.
Trong kinh này, Phật không còn được xem là vị Phật lịch sử nữa mà là dạng xuất hiện của Pháp thân (sa. dharmakāya, xem Tam thân), là thể tính đích thật của muôn loài. Mỗi chúng sinh đều xuất phát từ dạng chuyển hoá này của Phật tính và vì vậy đều có thể trở về với chân tính của mình, trở thành một vị Phật.
[sửa] Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-guang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ Điển. Phật Quang Đại Từ Điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Das Lexikon der Östlichen Weisheitslehren, Bern 1986.
[sửa] Liên kết ngoài
Diệu pháp liên hoa kinh, Hoà thượng Thích Trí Quang dịch
Pháp Hoa Đà La Ni, Huyền Thanh dịch.

Kinh Lăng Gìa_Phật DạyCách Tự Chứng Chân Lý;Xa Lìa Uẩn Giới Xứ..

Khi ấy Bồ tát Đại huệ bạch Phật :
Bạch Thế Tôn! Sao là 108 câu?
Phật dạy:
Này Đại huệ ! Cái gọi là sinh cú (mệnh đề về sinh) phi sinh, thường phi thường, tướng phi tướng, trú dị phi trú dị, sát na phi sát na, tự tính phi tự tính, không phi không, đoạn phi đoạn, tâm phi tâm, trung phi trung, duyên phi duyên, nhân phi nhân, phiền não phi phiền não, ái phi ái, phương tiện phi phương tiện, thiện xảo phi thiện xảo, thanh tịnh phi thanh tịnh, tương ưng phi tương ưng, thí dụ phi thí dụ, đệ tử phi đệ tử, sư phi sư, chủng tính phi chủng tính, tam thừa phi tam thừa, vô ảnh tượng phi vô ảnh tượng, nguyện phi nguyện, tam luận phi tam luận, tiêu tướng phi tiêu tướng, hữu phi hữu, vô phi vô, câu phi câu, tự chứng thánh trí phi tự chứng thánh trí, hiện pháp lạc phi hiện pháp lạc, sát phi sát, trần phi trần, nước phi nước, cung phi cung, dòng giống lớn phi dòng giống lớn, xú lậu phi xú lậu, thần thông phi thần thông, hư không phi hư không, mây phi mây, mỹ thuật phi mỹ thuật, kỹ thuật phi kỹ thuật, gió phi gió, đất phi đất, tâm phi tâm, giả lập phi giả lập, thể tính phi thể tính, uẩn phi uẩn, chúng sinh phi chúng sinh, giác phi giác, Niết bàn phi Niết bàn, hiểu biết phi hiểu biết, ngoại đạo phi ngoại đạo, hỗn loạn phi hỗn loạn, huyễn phi huyễn, mộng phi mộng, lửa phi lửa, ảnh tượng phi ảnh tượng, vòng lửa phi vòng lửa, Càn thành phi Càn thành, trời phi trời, ăn uống phi ăn uống, dâm dục phi dâm dục, thấy phi thấy, đáo bỉ ngạn phi đáo bỉ ngạn, thành phi thành, nhật nguyệt tinh tú phi nhật nguyệt tinh tú, đế phi đế, quả phi quả, diệt phi diệt, diệt khởi phi diệt khởi, y phương phi y phương, tướng phi tướng, chi phần phi chi phần, thiền phi thiền, mê phi mê, hiện phi hiện, hộ phi hộ, dòng họ phi dòng họ, tiên phi tiên, vua phi vua, nhiếp thọ phi nhiếp thọ, quý phi quý, ký ức phi ký ức, nhất xiển đề phi nhất xiển đề, nữ nam bất nam phi nữ nam bất nam, mùi vị phi mùi vị, tác phi tác, thân phi thân, suy lường phi suy lường, động phi động, căn phi căn, hữu vi phi hữu vi, nhân quả phi nhân quả, sắc cứu cánh phi sắc cứu cánh, thời tiết phi thời tiết, cây dây phi cây dây, sự vật phi sự vật, diễn thuyết phi diễn thuyết, quyết định phi quyết định, luật tạng phi luật tạng, tỳ kheo phi tỳ kheo, trụ trì phi trụ trì, văn tự phi văn tự. Này Đại huệ ! 108 nghĩa này đều là những gì Phật quá khứ đã nói.
Đại huệ Bồ tát bạch Phật:
Bạch Thế Tôn ! Các thức có mấy thứ sinh trú diệt ?
Phật dạy:
Đại huệ, các thức có hai thứ sinh trú diệt, không phải dùng suy lường đo tính mà biết được. Ấy là tương tục sinh và tướng sinh, tương tục trú và tướng trú, tương tục diệt và tướng diệt. Các thức có ba tướng: chuyển tướng, nghiệp tướng, chân tướng. Đại huệ ! Thức nói rộng có 8 thức, lược nói thì có hai: hiện thức và phân biệt sự thức. Đại huệ ! Như trong gương sáng các hình sắc đều hiện rõ, hiện thức cũng thế. Đại huệ! Hiện thức và phân biệt sự thức, hai thức này không khác nhau, chúng làm nhân cho nhau. Hiện thức lấy sự biến hóa "bất tư nghì huân" làm nhân, phân biệt sự thức lấy sự phân biệt cảnh giới và tập khí hý luận từ vô thỉ làm nhân. Đại huệ ! Những tập khí hư vọng phân biệt của thức a lại da diệt thì hết thảy căn thức diệt, ấy gọi là tướng diệt. Đại huệ ! Tương tục diệt ấy là nhân sở y diệt cùng sở duyên diệt thì tương tục cũng diệt. Nhân sở y là tập khí hý luận hư vọng, sở duyên là cảnh giới do tự tâm thấy và phân biệt thành. Đại huệ ! Thí như nắm bùn và vi trần không khác nhau, cũng không phải là một. Vàng và đồ trang sức cũng thế. Đại Huệ, nếu bùn và vi trần khác nhau thì đáng lẽ bùn không do vi trần hợp thành, nên nói không khác. Nếu nắm bùn và vi trần không khác, thì đáng ra không thể phân biệt nắm bùn với vi trần. Đại huệ ! Chuyển thức và tạng thức nếu khác nhau, thì tạng thức không thể làm nhân cho các chuyển thức. Nếu không khác thì khi chuyển thức diệt, lẽ ra tạng thức cũng diệt luôn, song kỳ thật chân tướng của tạng thức không diệt. Đại huệ ! Chân tướng của tạng thức không diệt, chỉ có nghiệp tướng của nó diệt. Nếu chân tướng diệt thì tạng thức cũng diệt hay sao? Nếu tạng thức diệt, thì không khác gì thuyết đoạn diệt của ngoại đạo. Đại huệ ! Ngoại đạo lập thuyết thế này: cái thức tương tục nắm giữ cảnh giới diệt thì thức tương tục từ vô thỉ cũng diệt. Đại huệ ! Những người ngoại đạo bảo thức tương tục do một tác giả tạo ra chứ không nói nhãn thức do sắc, hình, ánh sáng hòa hợp mà sinh; chỉ nói tác giả làm nhân sinh ra. Tác giả ấy là gì? Họ kể ra Thắng tính (Pradhàna), trượng phu (purusa), Tự tại (Ìs'vara), Thời (kàla) và vi trần (anu) là những pháp năng tác. Lại nữa, này Đại huệ! có bảy món tự tính, ấy là Tập (Samudaya), Tính (Bhàva), Tướng (Laksana), Đại chủng (Mahàbhàta), nhân (hetu), duyên (pratyaya), Thành (nispatti). Và nữa, này Đại huệ, có bảy thứ đệ nhất nghĩa, là: Tâm sở hành (cittagocara), Trí sở hành (Jnànagocara), nhị kiến sở hành (Drstidvayagocara), siêu nhị kiến sở hành (Drstidvayàtikràntagocara), siêu tử địa sở hành, Như lai sở hành, Như lai tự chứng thánh trí sở hành (Tathàgatasyapratyàtma- gatigiocarah). Này Đại huệ, ấy là pháp tự tại, tâm đệ nhất nghĩa của tất cả Như lai Ứng Chính đẳng giác trong ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai, dùng tâm này mà thành tựu các pháp tối thượng của Như lai ở thế gian và xuất thế gian, dùng tuệ nhãn của bậc thánh mà thể nhập các tự tướng và cọng tướng, thảy đều an lập. Những gì các bậc ấy an lập không đồng với chỗ lập thuyết của ngoại đạo ác kiến. Đại huệ ! Sao gọi là ác kiến ngoại đạo? Ấy là không biết rằng cảnh giới vốn do tự tâm phân biệt mà hiện, đối tự tính đệ nhất nghĩa mà chấp có, không, khởi ra ngôn thuyết. Đại huệ ! Ta nay sẽ nói, nếu biết rõ cảnh giới là như huyễn, do tự tâm hiện, thì sẽ diệt khổ vì vọng tưởng ba cõi, diệt các vô tri, ái, nghiệp, duyên. Đại huệ, có những bà la môn và sa môn vọng chấp cái vốn không và cho rằng những pháp hiện ở ngoài y theo nhân quả, thời gian mà trú, hoặc cho rằng uẩn giới xứ theo duyên mà sinh, trú, sau khi hiện hữu thì hoại diệt. Đại huệ ! Quan niệm của những người kia đối với các pháp như tương tục, tác dụng, sinh diệt, hiện hữu, Niết bàn, đạo, nghiệp, quả, đế ... đều là lý luận phá hoại, đoạn diệt. Vì sao? Bởi vì họ không đạt được hiện pháp (pratyaksa), không thấy căn bản. Đại huệ ! Thí như chiếc bình vỡ không thể làm được việc của nó, lại như hạt giống cháy không thể sinh mầm, đây cũng thế. Nếu các pháp uẩn giới xứ đã hiện sẽ diệt, nên biết đấy tất không phải tương tục sinh, vì chúng không có nhân, chỉ có tự tâm hư vọng thấy thành. Lại nữa, Đại huệ ! Nếu thức vốn không, do ba duyên hợp mà sinh, thì đáng lẽ rùa cũng sinh lông, cát sẽ sinh dầu; như vậy Tôn (pratijnà) của ngươi hỏng, vì trái với nghĩa quyết định (niyama); những gì lập ra tất sẽ thành vô dụng. Đại huệ ! Ba pháp hợp làm duyên là do tính nhân quả mà nói, và như vậy có (những pháp như) hiện tại quá khứ vị lai, hữu và vô. Nếu họ cứ ở trên lập trường lý giáo (yuktyàgama) ấy, thì những gì họ chứng minh sẽ là do luận lý, lý giáo của họ, vì ký ức những quan niệm sai lầm sẽ mãi mãi huân tập họ (theo bản Suzuki). Đại huệ ! Kẻ phàm phu ngu dốt bị ác kiến cắn rỉa, tà kiến mê hoặc, vô trí mà vọng nói là Nhất thiết trí. Đại huệ ! Lại có các sa môn, bà la môn, quán hết thảy pháp không tự tính, như mây giữa hư không, như vòng lửa quay, như thành biến hóa của loài Càn thát bà, như huyễn hóa, như ảo ảnh, như trăng dưới nước, như cảnh chiêm bao, tất cả đều không ngoài tâm, chỉ vì cái thấy hư vọng từ vô thỉ mà chấp thật có cảnh giới bên ngoài. Quán như thế rồi, họ bặt dứt các duyên phân biệt, xa lìa danh nghĩa mà vọng tâm ôm giữ, biết rằng thân, tài sản và nhà cửa, tất cả đều là cảnh giới tạng thức, không có năng sở, không có sinh, trụ, diệt, họ thường tư duy như thế không rời. Đại huệ ! Những đại Bồ tát ấy không lâu sẽ xem bình đẳng giữa sinh tử và Niết bàn (samsàranirvàna), được hạnh đại bi phương tiện không cần dụng công, quán sát chúng sinh như huyễn như hóa, như hình ảnh theo duyên mà sinh, biết ngoài tâm không có các cảnh giới. Các vị ấy sẽ thực hành đạo vô tướng, dần tiến lên các "địa", an trú trong chính định, hiểu rõ ba cõi do tâm, chứng được định Như huyễn (Màyopamasamàdhi), tuyệt dứt các ảnh tượng, thành tựu trí tuệ, chứng pháp vô sinh, nhập định kim cương dụ (vajravimbopama), sẽ được Phật thân (Tathàgatakàya). Nhưng vị ấy sẽ thường trú trong Như như (Tathàta) mà khởi các thần thông biến hóa, trang sức bằng tự tại, trí tuệ, phương tiện để dạo chơi các cõi Phật, xa lìa các ngoại đạo. Tâm, ý, thức, lần lượt chuyển y mà thành tựu thân Như lai. Đại huệ ! Các vị đại Bồ tát muốn được thân Phật, phải xa lìa uẩn giới xứ, vì đấy là các pháp do nhân duyên sinh,
xa lìa các pháp sinh, trú, diệt,
phân biệt, hí luận.
Chỉ nên chú tâm quán sát ba cõi là do tập khí hư vọng từ vô thỉ khởi lên,
tư duy Phật địa vốn vô tướng, vô sinh, là thánh pháp tự chứng. Như thế sẽ được tâm tự tại, hạnh không cần dụng công, như ngọc ma ni hiện đủ thứ hình sắc, đạt lý duy tâm, tuần tự nhập vào các địa. Bởi thế, này Đại huệ, các bậc đại Bồ tát nên siêng tu học chân lý tự chứng này

Kinh Lăng Gìa-Phật Dạy Cấm Ăn ThịtDù Là Thịt Của Con Vật Chết.

CHƯƠNG VIIICẤM ĂN THỊT

Bấy giờ Đại huệ Bồ tát đại hữu tình lại bạch Phật rằng:
Bạch Thế tôn! Xin vì con nói các công đức và lỗi lầm của việc ăn thịt, không ăn thịt. Con cùng các Bồ tát biết nghĩa ấy rồi sẽ diễn nói cho chúng sinh ăn thịt ở hiện tại, vị lai bị các tập khí huân tập, và khiến họ bỏ vị thịt mà cầu vị pháp, đối với hết thảy mọi loài sinh lòng đại bi, thương như thương con một, ở địa vị Bồ tát, được vô thượng chính đẳng chính giác, hoặc tạm dừng ở nhị thừa rồi cuối cùng cũng thành vô thượng chính đẳng chính giác. Bạch Thế tôn! Những bọn Thế luận khởi kiến hữu vô, chấp trước đoạn, thường mà còn cấm không cho ăn thịt, huống hồ đức Như lai Ứng chính đẳng giác, đầy lòng đại bi, thế gian đều nương cậy, mà lại tự cho phép mình và kẻ khác ăn thịt hay sao. Hay thay! Đấng Thế tôn đầy đủ đại bi thương xót thế gian, thường xem chúng sinh như con một, nguyện xin Thế tôn giải nói cho con về những lỗi lầm và ác độc của sự ăn thịt và những công đức của sự kiêng thịt, khiến con cùng các Bồ tát nghe rồi phụng hành, rộng nói cho người.
Bấy giờ Đại huệ Bồ tát lại nói bài tụng:
Bồ tát đại hữu tình
Chí cầu Vô thượng giác
Rượu thịt cùng tỏi hành
Được ăn hay không được
Kẻ ngu tham ăn thịt
Hôi dơ không xiết kể
Đồng như ác thú kia
Làm sao mà ăn được
Kẻ ăn có lỗi gì
Không ăn có đức gì
Xin nguyện đấng Thế tôn
Vì con khai diễn hết.
Khi ấy Phật dạy Bồ tát Đại huệ rằng:
Đại huệ! Hãy nghe, và khéo suy nghĩ. Ta sẽ phân biệt rõ cho ông thấy. Đại huệ! Có vô số lý do khiến Bồ tát thương xót không ăn thịt, ta chỉ nói đôi phần. Đại huệ! Tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay không ngừng qua lại trong sinh tử luân hồi, không khỏi có lần làm cha mẹ anh em con cái lẫn nhau, hoặc làm bà con, bè bạn, đầy tớ thân yêu... Sang đời khác họ sinh làm thân chim và thú, sao nỡ đem ăn thịt? Đại huệ! Bồ tát đại hữu tình xem chúng sinh như thân mình, nghĩ rằng thịt đều do có mạng sống mà ra, làm sao nỡ ăn? Đại huệ! Bọn quỷ la sát v.v.. nghe ta nói thế này còn bỏ ăn thịt, huống hồ những người thích pháp. Đại huệ! Bồ tát đại hữu tình ở đâu cũng xem chúng sinh là thân thuộc, cho đến nghĩ như con một của mình, nên không ăn tất cả thịt. Đại huệ! những người bán thịt ở góc đường chợ búa hoặc lấy thịt chó ngựa người trâu bò v.v.. đem bán để cầu lợi, uế tạp như thế làm sao ăn được.
Đại huệ! Hết thảy các thứ thịt đều do máu huyết ô uế làm ra, người cầu trong sạch sao lại ăn dùng. Đại huệ! chúng sinh khi thấy những người ăn thịt thì sợ hãi, kẻ tu từ tâm sao lại ăn thịt. Đại huệ! Những thợ săn, Chiên đà la (Càndàla), những người bắt cá, lưới chim, chó thấy thì sủa, thú vật thấy thì bỏ chạy. Tất cả chúng sinh bay trên không chạy trên đất, sống dưới nước, trông thấy những người kia đều nghĩ : "Tên ấy trông như quỷ la sát, nay đến đây chắc để giết mình." Vì lo giữ mạng sống nên chúng đều chạy tránh. Người ăn thịt cũng vậy. Cho nên Bồ tát vì tu hạnh từ không nên ăn thịt. Đại huệ ! Người ăn thịt thì thân thể hôi hám dơ bẩn, tiếng ác truyền khắp, hiền thánh, người tốt không thân gần, do vậy Bồ tát không nên ăn thịt. Đại huệ! Máu thịt là thứ mà tiên thánh không dùng, nên Bồ tát không ăn thịt. Đại huệ! Lại vì muốn gìn giữ tín tâm của chúng sinh, không để họ chê bai nhạo báng Phật pháp, nên Bồ tát không ăn thịt. Đại huệ! Nếu đệ tử ta ăn thịt, thì người đời sẽ ôm lòng chê bai, nói: "Sa môn tịnh hạnh sao lại từ bỏ vị ăn của chư thiên mà cư xử như ác thú, ăn thịt đầy bụng đi khắp thế gian, khiến chúng sinh cầm thú hoảng sợ, phá hạnh thanh tịnh, lỗi đạo sa môn? Xem đấy đủ biết Phật pháp không có hạnh điều phục." Bồ tát thương chúng sinh, muốn giữ cho họ khỏi sinh tâm ấy, nên không ăn thịt. Đại huệ! Khi thịt người cháy thì hơi hôi xông lên, các thứ thịt nướng khác cũng vậy. Cũng cùng là thịt, sao lại có thứ ăn, có thứ không ăn. Cho nên những người vui đạo thanh tịnh không nên ăn thịt. Đại huệ! Các nam nữ thiện tín tu hành thanh tịnh ở dưới cây hay nơi vắng vẻ để an trú tâm từ, trì chú cầu giải thoát, hoặc cầu pháp Đại thừa, nhưng vì ăn thịt mà không đạt được các mục đích trên. Bởi thế Bồ tát muốn lợi mình lợi người không nên ăn thịt. Đại huệ! Người ăn thịt khi trông thấy thịt liền sinh lòng tham ăn ngon. Bồ tát thương nghĩ hết thảy chúng sinh như thân mình, làm sao thấy thịt mà nghĩ đến chuyện ăn được? Vì thế Bồ tát không nên ăn thịt. Đại huệ! Lại người ăn thịt thì chư thiên xa lánh, hơi miệng thường hôi, ngủ mộng bất an, tỉnh dậy lo sợ, bị ác quỷ dạ xoa hút mất tinh khí, lòng nhiều hoảng sợ, ăn không biết đủ, tăng trưởng bệnh, dễ sinh ghẻ lở, mụt nhọt, thường bị vi trùng đục khoét, không thể sinh tâm chán ghét muốn xa lìa thịt. Đại huệ! Ta thường nói : "Tỳ kheo ăn cái gì cũng nên nghĩ như ăn thịt con." Các thức ăn khác còn thế, thì sao ta lại cho phép đệ tử ăn thịt được? Đại huệ! Thịt không tốt đẹp, không sạch, làm sinh các tội ác, phá hoại các công đức, bị chư thiên, thánh nhân xa lìa, sao ta lại cho phép đệ tử ăn thịt? Kẻ nào nói ta thuận cho ăn thịt chính là phỉ báng ta vậy. Đại huệ! Thức ăn sạch là lúa gạo, đậu, đại mạch, tiểu mạch, dầu mè, ván sữa, đường. Những loại như thế đều được chư Phật quá khứ cho phép ăn. Những thứ nên ăn ta nói đây là để cho những thiện nam tín nữ trong dòng họ ta, những kẻ có đức tin thanh tịnh, đã trồng căn lành từ lâu đời, không tham trước thân mạng tài sản, xót thương hết thảy như chính thân mình. Ta nói những vật nên ăn cho những người như vậy, chứ không phải cho những kẻ có thói quen độc ác, tính như hổ lang, lòng nặng dục vọng.
Đại huệ! Xưa có quốc vương tên Sư tử sinh (Simhasaydàsa), ưa mùi vị thịt, ăn đủ thứ thịt đến cả thịt người, thần dân không chịu nỗi nên làm phản. Cuối cùng vua phải mất nước, chịu khổ não lớn. Đại huệ! Thích đề hoàn nhân đã ở địa vị vua trời, do tập khí ăn thịt đời trước còn lại, nên biến làm chim ưng săn đuổi một con bồ câu. Ta lúc ấy làm vua tên Thi tỳ (Sivin), thương xót bồ câu nên tự cắt thịt mình để thế mạng cho nó.
Đại huệ! Tập khí còn lại của Đế thích còn làm khổ chúng sinh, huống gì những kẻ ăn thịt thường xuyên không biết hổ thẹn. Ăn thịt đã tự hại còn hại người, vì thế Bồ tát không nên ăn thịt. Đại huệ! xưa có ông vua cỡi ngựa đi săn, ngựa sợ chạy vào núi hiểm, chốn không người ở, cũng không có lối ra. Vua gặp một sư tử cái cùng nó hành dâm sinh nhiều con. Trong số con có một trưởng giả rất giàu có tên Ban túc, về sau làm vua thống lĩnh 7 ức nhà, vì quen thói ăn thịt nên không phải thịt thì không ăn. Ban đầu ăn thú vật sau đến ăn người, sinh con trai con gái đều là quỷ la sát, chết tái sinh làm sư tử, sài lang, cọp beo, chim điêu, chim thứu v.v.. muốn cầu được thân người còn không được, nói gì đến cầu thoát sinh tử đạt Niết bàn. Đại huệ! Ăn thịt có vô lượng lỗi lầm tai hại như thế, nên chấm dứt ăn thịt sẽ được công đức lớn. Kẻ phàm ngu không biết những tổn hại của sự ăn thịt và lợi ích của không ăn. Bởi thế nay ta vì ngươi mà nói rõ. Bất cứ cái gì là thịt đều không nên ăn. Đại huệ ! Người ta sát sinh phần lớn là do có người ăn thịt, nếu không người ăn thì cũng không có việc giết; bởi thế ăn thịt cũng có tội như giết. Quái lạ cho người đời tham đắm vị thịt, thịt người còn ăn huống là thịt chim thú. Vì tham ăn ngon, chúng đặt ra đủ cách giăng lưới bày bẫy khắp nơi, loài dưới nước, loài ở trên đất, loài bay trên không đều bị giết hại, nếu không tự mình ăn thì cũng đem bán để lấy tiền.
Đại huệ ! Thế gian có những kẻ không lòng thương xót, chuyên làm việc tàn bạo như quỷ la sát; khi thấy chúng sinh thân hình béo tốt là nghĩ đến thịt, và bảo "Con vật này ăn được đấy." Đại huệ ! Thế gian không có thứ thịt nào không do mình giết hay người giết, lòng mình không nghi là nó bị giết (để có thể ăn được.) Do nghĩa này mà ta cho phép thanh văn ăn thứ thịt như thế. Đại huệ ! Đời sau có những kẻ ngu si xuất gia trong pháp luật của ta, giảng quấy giới luật, làm loạn chính giáo, phỉ báng ta với lời nói ta cho phép ăn thịt và chính ta cũng đã từng ăn. Đại huệ ! Nếu ta cho phép thanh văn ăn thịt, tức ta không phải người an trú tâm từ, người tu quán hạnh, người hành đầu đà, người đi nơi đại thừa; làm sao có thể khuyên thiện nam tín nữ nên xem chúng sinh như con một, nên dứt ăn tất cả thịt? Đại huệ! Có chỗ ta nói cho ăn ba thứ tịnh nhục, đấy là để dần dần cấm hẳn, khiến dễ tu học. Nay trong kinh này, tất cả thịt của con vật tự chết hay bị giết, đều không được ăn. Đại huệ ! Ta chưa bao giờ cho phép đệ tử ăn thịt, cũng không đang cho phép, cũng không sẽ cho phép.

Đại huệ ! Tất cả sự ăn thịt đối với người xuất gia đều là bất tịnh.
Đại huệ ! Nếu có kẻ ngu si phỉ báng ta bằng cách nói Như lai cho phép ăn thịt và chính Như lai cũng đã có ăn, nên biết kẻ ấy bị ác nghiệp buộc ràng, sẽ bị đọa vào những chỗ không lợi lạc. Đại huệ ! Các thánh đệ tử còn không ăn những thứ đoàn thực của phàm phu, huống gì thịt vốn là thức ăn dơ uế. Đại huệ ! Thanh văn duyên giác bồ tát còn chỉ ăn pháp thực (dharmàhàra) huống gì Như lai. Đại huệ ! Pháp thân Như lai không phải là thân ô tạp. Như lai đã dứt trừ hết phiền não, tẩy sạch hết tập khí, khéo thanh lọc tâm tuệ, đại bi bình đẳng quán khắp chúng sinh như con một; há lại cho phép đệ tử thanh văn ăn thịt con ta sao? Huống nữa là tự ta ăn. Nói như vậy là chuyện không có.
Bấy giờ Thế Tôn lại nói bài tụng:
Đều từng làm thân thuộc
Do các uế mà thành
Làm khiếp sợ chúng sinh
Nên không được ăn thịt
Tất cả các loại thịt
Hành tỏi, các thứ rượu
Những vật bất tịnh ấy
Người tu hành lìa xa
Lại thường lìa dầu thoa
Cùng giường có thủng lỗ
Vì các côn trùng nhỏ
Trong đó rất sợ hãi
Ăn (thịt) sinh phóng dật
Phóng dật sinh tà giác
Tà giác sinh tham lam
Bởi vậy không nên ăn
Vì tà giác sinh tham
Tâm bị mê vì tham
Tâm mê tăng ái dục
Sinh tử không giải thoát
Vì lợi sát chúng sinh
Lấy tiền ra mua thịt
Cả hai đều ác nghiệp
Chết đọa ngục gào thét
Không thấy nghe nghi giết
Ba thứ ấy gọi tịnh
Vì thịt ấy không có
Kẻ ăn ta quở trách
Lại cùng ăn nuốt nhau
Chết đọa vào ác thú
hôi dơ và si cuồng
Bởi thế không nên ăn
thợ săn, chiên đà la
Đồ tể, la sát bà
Sinh trong các hạng ấy
Là quả báo ăn thịt
Đã ăn không hổ thẹn
Đời đời bị si cuồng
Chư Phật cùng Bồ tát
Thanh văn đều nghi ghét
Tượng kiếp (Hastikakshya) cùng Đại vân (Mahàmegha)
Niết bàn, ương quật ma (angulimàlika)
Cùng lăng già kinh này
Ta đều bảo dứt thịt
Trước nói kiến, văn, nghi
Để dứt hết thảy thịt
Vì ác tập cho nên
Kẻ ngu vọng phân biệt
Như tham ngăn giải thoát
Các thịt cũng như thế
Nếu người có ăn thịt
Không thể vào thánh đạo
Chúng sinh đời vị lai
Nói ngu si về thịt
Nói "đây tịnh không tội
Phật cho chúng ta ăn."
Tịnh thực còn (xem) như thuốc
Như đói ăn thịt con
Cho nên kẻ tu hành
Biết lượng đi xin ăn
Ăn thịt trái giải thoát
Cùng trái biểu tượng thánh
Khiến chúng sinh sợ hãi
Cho nên không được ăn
Kẻ an trú từ tâm
Thường phải nên xa lìa
Sư tử và hổ lang
Ăn thịt sinh trong đó
Nếu các thứ rượu thịt
Hết thảy đều không dùng
Sẽ sinh dòng hiền thánh
Thịnh vượng, đủ trí tuệ.

Nhập Lăng Gìa Kinh-Giác Ngộ-Xóa Nhị Nguyên-TâmKhông Còn Phân Biệt

Nhập Lăng-già kinh
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bước tới: menu, tìm kiếm
Thánh điển Phật giáo

Kinh
Bát-nhã kinh
Bát-nhã tâm kinh
Bát thiên tụng bát-nhã kinh
Kim Cương kinh
Tiểu phẩm bát-nhã kinh
Đại phẩm bát-nhã kinh
Đại Nhật kinh
Pháp Hoa kinh
Hoa Nghiêm kinh
Lăng-nghiêm kinh
A-di-đà kinh
Kim quang minh kinh
Tô tất đế yết la kinh
Thắng Man kinh
Thập địa kinh
Duy-ma-cật sở thuyết kinh
Giải thâm mật kinh
Nhập Lăng-già kinh
Niết bàn kinh
Lão Tử hóa hồ kinh
Bộ kinh & A-hàm kinh
Trường bộ
Trung bộ
Tăng chi bộ
Tiểu bộ
Tương ưng bộ
Từ kinh
Bản sinh kinh
Tứ niệm xứ kinh
Niết bàn kinh
Tịnh độ Tam Kinh
Phật thuyết vô lượng thọ kinh
Phật thuyết A Di Đà kinh
Quán vô lượng thọ kinh
Luận
A-tì-đạt-ma
Bảo tính luận
Bồ-đề đạo đăng luận
Câu-xá luận
Du-già sư địa luận
Duy thức nhị thập tụng
Đại thừa khởi tín luận
Nhập Bồ-đề hành luận
Nhiếp đại thừa luận
Tập Bồ Tát học luận
Nhiếp chân thật luận
Tập lượng luận
Thành duy thức luận
Trung quán luận
Thanh tịnh đạo luận

Trang đầu của bộ Đại thừa nhập Lăng-già kinh, bản dịch của Thật-xoa-nan-đà
Nhập Lăng-già kinh (zh. rù lèngqié jīng 入楞伽經, ja. nyū ryōga kyō, sa. laṅkāvatārasūtra) là một bộ kinh Đại thừa, đặc biệt nhấn mạnh đến tính giác ngộ nội tại, qua đó mọi hiện tượng nhị nguyên đều biến mất, hành giả đạt tâm vô phân biệt. Đó là tâm thức đã chứng được Như Lai tạng (sa. tathāgata-garbha) vốn hằng có trong mọi loài. Kinh này chỉ rõ là văn tự không đóng vai trò quan trọng gì trong việc trao truyền giáo pháp.
Kinh này có ba bản dịch Hán ngữ song song với nguyên bản tiếng Phạn còn tồn tại:
Bản dịch của Cầu-na-bạt-đà-la (sa. guṇabhadra) dưới tên Lăng-già-a-bạt-đa-la bảo kinh (zh. 楞伽阿跋佗羅寶經) 4 quyển;
Bản của Bồ-đề-lưu-chi (sa. bodhiruci) với tên Nhập Lăng-già kinh, 10 quyển;
Đại thừa nhập Lăng-già kinh (zh. 大乘入楞伽經) của Thật-xoa-nan-đà (sa. śikṣānanda), 7 quyển.
Những thuyết trong kinh này rất gần với quan điểm của Thiền tông. Cùng với kinh Kim cương bát-nhã-ba-la-mật-đaĐại thừa khởi tín luận (sa. mahāyānaśraddhotpāda-śāstra), kinh Nhập Lăng-già là một trong những bộ kinh Đại thừa có ảnh hưởng lớn đến Thiền tông Trung Quốc. Người ta cho rằng bộ kinh này do Bồ-đề-đạt-ma, Sơ tổ thiền Trung Quốc chính tay truyền cho Nhị tổ Huệ Khả. Ngay cả giáo pháp tiệm ngộ (giác ngộ từng bậc) của Thần Tú cũng bắt nguồn từ kinh Nhập Lăng-già này.
Kinh bao gồm 9 chương văn xuôi trộn lẫn với các câu kệ và một chương chỉ toàn văn vần. Kinh này lần đầu được dịch ra Hán văn trong thế kỉ thứ 5. Kinh Nhập Lăng-già được Phật thuyết tại Tích Lan theo lời mời của một nhà vua xứ này, trong đó Phật trả lời những câu hỏi của Bồ Tát Đại Huệ (sa. mahāmati). Giáo pháp trong kinh này là nền tảng của Duy thức tông (sa. yogācāra, vijñānavāda).
[sửa] Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-Guang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ Điển. Phật Quang Đại Từ Điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Das Lexikon der Östlichen Weisheitslehren, Bern 1986.
[sửa] Liên kết
Nguyên bản Phạn ngữ Devangari
Nguyên bản Phạn ngữ Latinh hoá
Bản dịch tiếng Anh của Suzuki: The Laṅkāvatāra Sūtra - Translated for the first time from the original Sanskrit by Daisetz Teitaro Suzuki
(tiếng Việt) Kinh Đại thừa Nhập lăng già bản của thích nữ Trí Hải năm 1969, hiệu chính năm 1997, dịch từ bản đời Đường của Thiệt Xoa Nan Đà, có tham khảo bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki

Sunday, April 17, 2011

24 món ăn kỵ nhau.

24 món ăn ky nhauBạn đã biết gan lợn không nên xào chung với giá ? Không uống sữa bò với các loại quả họ cam , quýt … Nhưng còn những loại thực phẩm khác nữa ? Và làm sao để dễ nhớ ? Nào , hãy cùng nhẩm đọc thuộc bài thơ dưới đây nhé ! Mật ong , sữa , sữa đậu nành ? Ăn cùng tắc tử - phải đành xa nhau ! Gan lợn , giá , đậu nực cười ? Xào chung , mất sạch bổ tươi ban đầu ! Thịt gà , kinh giới kỵ nhau ? Ăn cùng một lúc , ngứa đầu phát điên ! Thịt dê , ngộ độc do đâu ? Chỉ vì dưa hấu , xen vào bữa ăn ! Ba ba ăn với dền , sam Bụng đau quằn quại , khó toàn vẹn thân ! Động kinh , chứng bệnh rành rành ? Là do thịt lợn , rang chung ấu Tầu ! Chuối hột ăn với mật , đường ? Bụng phình , dạ trướng , dọc đường phân rơi ! Thịt gà , rau cải có câu ? Âm dương , khí huyết thoát vào hư vô ! Trứng vịt , lẫn tỏi , than ôi ? Ăn vào chắc chết , mười mươi rõ ràng ! Cải thìa , thịt chó xào vô ? Ăn vào , đi tả , hôn mê khôn lường ! Sữa bò , cam , quýt , bưởi , chanh ? Ăn cùng một lúc , liên thanh sấm rền ! Quả lê , thịt ngỗng thường thường ? Ăn vào cơ thể đùng đùng sốt cao ! Đường đen pha sữa đậu nành ? Đau bụng , tháo dạ , hoành hành suốt đêm ! Thịt rắn , kị củ cải xào ? Ăn vào , sao thoát lưỡi đao tử thần ! Nôn mửa , bụng dạ không yên ? Vì do hải sản ăn liền trái cây ! Cá chép , cam thảo , nhớ rằng ? Ăn chung , trúng độc , không cần hỏi tra ! Nước chè , thịt chó no say ? Thỉnh thoảng như thế , có ngày ung thư ! Chuối tiêu , môn , sọ phiền hà ? Ruột đau quằn quại , như là dao đâm ! Khoai lang , hồng , mận ăn vô ? Dạ dày viêm loét , tổn hư tá tràng ! Ai ơi , khi chưa dọn mâm ? Nhắc nhau nấu nướng , sai lầm hiểm nguy ! Giàu Vitamin C chớ có tham (1) Nấu cùng ốc , hến , cua , tôm , nghêu , sò ! Ăn gì ? ăn với cái gì ? Là điều cần nhớ , nên ghi vào lòng ! Chẳng may ăn phải , vài giờ ? Chúng tạo chất độc bảng An chết người ! Quý nhau mời tiệc lẽ thường ! Thức ăn tương phản , trăm đường hại nhau !

Saturday, April 16, 2011

Phật thuyết Thí Ngạ Quỷ Cam Lồ Vị Đại Đà La Ni.

Tạng Thư Phật Học Kinh Phật Thuyết Thí Ngạ Quỷ Cam Lộ Vị Đại Đà La Ni Đại đức Bạt Đà Mộc A dịch từ chữ Phạn ra chữ Hán Việt dịch: Quảng Minh Như vầy, một thời đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai trú ở hải hội thuyết pháp là đạo tràng Ba la, tịnh xá Lô Kê nơi đỉnh Kim Cang Luân, núi Cô Đà, cùng với bất khả thuyết A tăng kỳ bốn chúng vây quanh. Ngồi trên những tòa Kim Cang tám góc có sư tử là chư vị Bồ tát nói pháp Phương quảng, trọn thời buông dục. Bấy giờ, đức Thế Tôn thương xót các loại chúng sanh trong nẻo ác mà muốn diễn nói Thân na Tất lợi đa Ma đà la Ban giá Đà la ni [1], là thần chú đại bi tối thắng, vì là pháp môn thiện xảo bí mật. Từ nơi tim của Như lai mật phóng ánh sáng mặt trăng màu ngọc Ma ni, gọi là Nguyệt ái từ quang, trên chiếu đến cõi trời Hữu đảnh, dưới soi tới địa ngục A tỳ, cho đến mười phương thảy đều soi khắp; trong ánh sáng ấy mọi thứ đều sáng suốt, như kính pha lê soi thấy ảnh tượng. Đức Phật bảo các đại chúng: Thiện nam tử, các ông phải quán sát sự thọ thân trong sáu nẻo đều là khổ não. Đại chúng ở đây nương uy thần của Phật quán thấy việc đó rồi, cùng mở lời thưa rằng: Chúng con đã thấy rõ ràng. Đức Phật dạy: Tám khổ thế gian, kể không thể xiết; tai ương sáu nẻo, rất đáng sợ hãi. Cớ sao vậy? Người trong thế gian không tin tội phước, báng bổ cho là không có nhân quả, (do) điên đảo không biết, (thêm) tham lam ganh ghét, nên sau khi mạng chung, đọa vào ngục Vô gián, chịu đủ các khổ, không thể nghĩ bàn. Ra khỏi địa ngục lại rơi vào đường ngạ qủy, đủ các ác nghiệp, thọ báo khác nhau. Do ác nghiệp mà thọ ba mươi sáu loại thân ngạ qủy, đó là: qủy Bệ lệ đa, qủy Xa da, qủy Kiện đà, qủy Bố sắc ba, qủy Kệ bà da, qủy A thâu giá, qủy Bà đa, qủy Ô đà ha la, qủy Đà la chất đa, qủy Chất đa, qủy Bà lỗ da, qủy Thị vĩ đa, qủy Khởi sa kê đà, qủy Xà để, qủy Yết tra bố đơn na, qủy Cưu bàn trà, qủy Tất xá giá [2], như vậy cho đến (ác nghiệp) nặng nhẹ kẻ hở. Do ác nghiệp sâu nặng mà cảm ra quả báo đói khát bừng lửa, ganh ghét hừng hực, thường tham uống ăn, chỉ nghĩ nước uống, ngoài ra không biết, khổ đau thảm thiết, không nói nên lời. Cảm báo ra cái thân như đống lửa lớn, thân lượng dù nhỏ dù lớn [3] đều là gầy gò tiều tụy, tay chân yếu ớt, chân như cái chậu nứt vỡ, da thịt khô khan, mạch máu cằn cỗi, giống như trái cây khô héo, bụng phình lớn như cái trống, cuống họng như mũi kim, hơi thở không thông, thường có lửa dữ đốt cháy bên trong, đầu lâu ngang dọc năm núi Di Lâu [4], lửa dữ hừng cháy chưa từng tạm nghỉ. Khi thân di động, lửa cháy toàn thân, làm cho đói khát, lửa lớn thiêu đốt bức bách thân tâm, đông tây chạy đuổi, hú hí kêu gọi tìm kiếm thức ăn. Giả thử thấy đồ ăn ngon, muốn chạy đến lấy, nhưng do nghiệp lực tham giận khiến cho vị ngon tuyệt diệu biến thành máu mủ hôi thối chảy tràn. Tuy thấy sông lớn hay nước suối mát ngọt, muốn qua lấy uống, thì bị các thủy thần dùng gậy sắt đánh đuổi. Giả như không có ai coi giữ, nước lạnh mát ngọt biến thành lửa cháy, lại bị loài chim có mỏ sắt như diều hâu, chim ưng, chim cắt mổ vào mắt qủy. Lại bị thú dữ độc ác như cọp đói, sói đói, mãng xà, chó rừng, vồ túm cào xé, khổ không nói được. Trên thân thể, những chỗ bị lông tóc phủ kín đều bị mười tám ngàn sâu trùng nhỏ độc ác sống bám nơi lông cắn rúc. Do sự đói khát thúc bách mà các ngạ qủy càng thêm giận dữ, sẵn sàng tàn hại nhau, phá bộ não, lấy tủy sống cùng nhau ăn nuốt. Trong năm trăm kiếp còn không nghe được cái tên nước uống, huống chi được thấy. Những khổ não như thế, thí dụ không thể diễn tả, toán số không thể tính được, tổng quát có thể nói là, trăm ngàn ức kiếp thọ báo đầy đủ các thân ác nghiệp xấu kém. Sau khi thoát khỏi cái thân ngạ qủy thì làm đủ loại thân thú vật bị nhốt trong chuồng hay làm thân con trùng trong nhà xí, hoặc núp trong phần dưới của thân con thú, các chỗ hôi thúi, dơ dáy. Các thiện nam tử, làm thân ngạ qủy là do đời trước ngu si điên đảo ngăn che, lưới tâm phiền não tham chấp giăng khắp và chắc, chỉ ưa thích cái thói bóc lột người khác không biết chán đủ: cha mẹ vợ con đều không chu cấp, sư trưởng dạy bảo coi như phân dơ, chẳng bao giờ giúp cho bà con, bạn bè, tôi tớ. Người bủn xỉn như vậy chẳng lo vô thường, tiếc giữ tài vật, nói làm đó là cho trăm năm, lại thường dạy người tham cầu gom chứa, chẳng biết vô thường lão bịnh cùng thân theo nhau. Đến lúc bịnh nặng, tự biết không còn sống lâu, vẫn thường nghĩ thầm: Ta lúc sanh thời, cần khổ cầu tài, nếu sau khi chết, thì các người ác ăn nuốt tài vật của ta như ăn nuốt lửa dữ, ở nhà cửa của ta như ở nhà tối tăm. Khi khởi nghĩ như vậy, do ác nghiệp mà la sát, ngục tốt biến làm người giận dữ, gom lấy của cải một đời của người ấy, đem đến chỗ tội nhân, lấy lửa đốt hết, tội nhân (thấy đó) sanh tâm hoan hỷ. Do nhân duyên như vậy, trong đường ác nghiệp, thân trung ấm hiện ra, phong đại bắt đầu khởi động làm cho mất đi hình thái hơi ấm, và khi đó các ngọn gió mang theo cái lạnh màu vàng cũng phát động. Do gió ác phát động khiến gân mạch co rút, trong miệng khô khan, mặt mắt trở nên vàng khè, răng biến dạng thành răng cáo, thân thể suy nhược, bụng trương phình to, mạch máu xanh vàng hiện, ăn uống không tiêu, thân thể gầy yếu, miệng đắng, nước tiểu vàng, mắt nổ đom đóm chỉ thấy lửa sáng, cổ họng sưng tấy, hơi thở nghịch gấp, đầu tim ghê thúi, ách chặn ngay cổ, tắt tiếng ngắn hơi, toàn thân ghẻ lở, máu mủ thối rữa, chịu khổ sở lớn. Khi sanh mạng sắp chấm dứt, lại khởi nghĩ như sau: Phải chi ta được một viên sắt nóng chảy trong cổ họng, được một khối lửa lớn vào nằm trong thân, lại được một chỗ tối tăm để tránh ánh lửa và trừ bịnh lạnh thì khoái biết mấy. Bấy giờ ngục tốt hóa làm vị lương y, đưa viên sắt mà biến thành viên thuốc lớn, đặt vào trong miệng, bảo ngậm miệng nhanh. Lại hóa xe lớn kết bởi hoa sen bằng vàng, trên xe có đồng tử cầm phất cổ vũ, bịnh nhân thấy vậy tâm sanh yêu thích, nghĩ viên thuốc nóng ấm này chắc trừ được bịnh lạnh, liền muốn đi về phía trước xe, hơi đứt chết liền, sanh vào ngục thất Viên sắt của địa ngục Vô gián. Trong đường đi của ngạ qủy, địa ngục này là nơi cực kỳ khổ não. Ngục ấy có một núi sắt, ngang dọc bằng nhau hai mươi lăm do tuần, hướng đông của núi có một lỗ nhỏ bằng cái đấu của nước Ma già đà [5], thoát ra khói đen, đã vào trong đó thì bị trùng dao trùng kiếm rỉa ăn thân thể, khói mù mịt làm cho không thấy lửa cháy, khắp nơi chướng ngại đuổi chạy, đầu đụng núi sắt, não vỡ tủy văng như làm bể bình mứt. Viên sắt xuyên vào từ trên đầu đâm ra ở dưới chân. Có thể nói tóm là, một niệm chết đi, một niệm sống lại. Đền tội xong lại sanh làm loài qủy ăn mũi dãi, loài qủy ăn máu mủ, từ đây lần lượt chuyển sanh cho đến làm loài thần trong nhà xí, mong chờ lấy thứ bất tịnh mà ăn nuốt. Hết quả báo này rồi thì sanh trong súc sanh, chịu đủ các loại thân như chó, v.v... Thọ báo này xong thì sanh làm người nghèo nàn, hèn hạ, lẻ loi nằm sương, ung thư, phung lác, run rẫy, tiêu chảy, tự trang sức đời mình bằng mọi thứ suy tổn. Người này với bao ác kiến, lạnh đói mà chết. Tướng trạng quả báo tốt xấu trong loài ngạ qủy chỉ nghe nói đến thôi thì lông thân dựng đứng, huống là đích mắt nhìn thấy. Do đó các ông phải khởi tâm đại bi mà cứu khổ nạn kia. Vì sao phát tâm cứu khổ? Các loài ngạ qủy đều là cha mẹ, anh em trai, chị em gái của các ông trong quá khứ, do điên đảo ngu si, không chịu cầu cái vui thoát tục, ưa đắm ba cõi, tạo đủ các tội, nghiệp lực cảm báo sanh làm ngạ qủy, khổ não nung cháy không biết khi nào thoát ra, mất hẳn thân người. Mất thân người nên lìa xa thiện tri thức; lìa xa thiện tri thức nên che thêm lưới nghi, vĩnh viễn không được Vô thượng bồ đề. Vì vậy nên biết, thật đáng thương xót, các ông phải cứu khổ ách cho họ được giải thoát. Bấy giờ trong chúng hội có một vị bồ tát tên là Nguyệt Ái, đã từng huân tập hạnh đại bi như biển, nghe thấy việc này, thân thể lay động, gân mạch co thắt, bi cảm đau buồn, từ chỗ ngồi đứng dậy, đầu mặt làm lễ, hai mắt ngấn lệ, bạch với Phật rằng: Than ôi, đức Bà già bà, xin dạy cho chúng con phương pháp cứu hộ làm an ổn cho số đông. Bấy giờ đức Thế tôn bảo bồ tát Nguyệt Ái: Tốt lắm, đại sĩ chính là đại bi, là người tu tập đại bi, vì thương xót tất cả mà hỏi Như lai việc này, ông phải khéo nghe. Thiện nam tử, Như lai có pháp đại bi tối thắng thuộc đà la ni môn, tên gọi là Thân na tất lợi đa đại đạo tràng hội cam lộ vị pháp, không thể nghĩ bàn, đủ đại từ bi, có uy thế lớn, có thể phá tan núi nghiệp rộng lớn của chúng sanh trong đường địa ngục, súc sanh, ngạ qủy; có năng lực làm cho vị bồ tát mau đắc các địa đi đến Như lai địa; lại được thành tựu một trăm mười chủng loại tâm đại từ bi, khiến cho người thọ trì hiện thân chứng được Đại bi luân đảnh vương đà la ni, là pháp môn tam muội của đại bi lưu xuất từ Như lai tạng không thể phá hoại. Thiện nam tử, đại thần chú này có thể dập tắt lửa cháy dữ dội từ sự đói khát trong loài ngạ qủy, thí cho vị ngon cam lộ mát trong, nhất định mau chóng trọn thành quả vị Vô thượng bồ đề. Thí như ánh trăng ban đêm trừ được sự um tùm, đà la ni này cũng lại như vậy, Như lai sẽ nói, các ông phải buộc niệm, một lòng lắng nghe, đừng cho quên mất. Thiện nam tử, nếu có tỷ kheo, tỷ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di, đồng nam, đồng nữ, và các chúng người trời, có ý muốn thọ trì giáo pháp phương tiện này, thì cần phải mời thỉnh cùng tận mười phương giới, tất cả ngạ qủy, thần chúng trong sáu nẻo, phải khởi niệm rằng: Nam mô Phật đà da, nam mô Đạt ma da, nam mô Tăng già da, nam mô bổn tôn Thích Ca Mâu Ni Như lai, nam mô An trụ đại địa chúng bồ tát, nam mô tất cả Long thiên thiện thần, nguyện đem uy thần, thương thêm hộ trợ. Con nay mời thỉnh mười phương quốc độ, cùng tận hư không giới, tất cả chúng hữu tình và ngạ qủy trong sáu nẻo, nương uy thần lực của Tam bảo, đều đến chỗ con. Nói lời này xong, mặt hướng phương đông, liền tụng bảy biến thần chú Triệu thỉnh. Bấy giờ, đức Thế tôn vì bồ tát Nguyệt Ái mà tuyên nói thần chú Triệu thỉnh đà la ni, ngài liền nói chú ấy: Na mô bồ đế rị, đát tha già đa da. Đức Phật dạy bồ tát Nguyệt Ái: Mời thỉnh xong rồi, bấy giờ mười phương tất cả ngạ qủy, qủy thần trong sáu nẻo đều đến tụ tập, chiêm ngưỡng hành giả. Hành giả khi ấy cần phải khởi đại bi tâm mà nói lời rằng: Các vị phải khéo nghe, nay tôi dùng đà la ni này để mở cổ họng cho các vị, cho các vị sự khoái lạc mềm mại, mát trong. Bấy giờ, đức Thế tôn nói thần chú Khai yết hầu đà la ni, chú rằng: Án, bồ đế rị, ca đát rị, đát đa già đa. Tụng thần chú đà la ni này đủ bảy biến rồi, do năng lực của thần chú mà cổ họng của các loài qủy được thông suốt, lửa dữ liền tắt, không còn thống khổ, thân tâm yên ổn. Bấy giờ hành giả trước nên bố thí nước uống. Muốn bố thí nước thì vào lúc sáng sớm hay thời gian trong ngày, cầm một chén nước sạch, mặt hướng phương đông, tụng thần chú bảy biến, hướng về phương đông mà vun rảy nước vào không trung. Do năng lực của đà la ni này mà mỗi một giọt nước rơi xuống đất đều biến thành mười hộc nước cam lộ cõi trời. Các loại qủy thần hưởng dụng no đủ, hoan hỷ vô lượng. Bấy giờ, đức Thế tôn vì bồ tát Nguyệt Ái mà nói liền thần chú Thủy đà la ni, chú rằng: Na mô tô lô bà duệ, đát già tha đa da, đát thiết tha, tô rô tô rô, ba ra tô lỗ sa bà ha. Đức Phật dạy bồ tát Nguyệt Ái: Thiện nam tử, đây gọi là đà la ni thần chú Thí nước cam lộ. Lại nữa, nếu chư thiên và loài người muốn bố thí thực phẩm của mình thì mỗi ngày nên trước giờ thọ trai, dùng cái bát hay đồ dung chứa tốt đẹp quí báu, như bát bằng vàng bạc, bát bằng đồng, bằng sắt, bạch lạp [6], đá qúi, hoặc bát bằng lưu ly, pha lê, các loại ngọc thạch; không có những thứ trên, thì dùng bát bằng gỗ, đá, gốm nhưng phải thật sạch sẽ; không có nữa thì dùng quả bầu khô cũng được, để đựng đầy sữa. Nếu không có sữa thì dùng nước sạch cũng được. Hoặc lấy đồ ăn thức uống có sẵn như cơm sữa, cơm nấu bằng nếp gạo, đại mạch, bánh, men rượu, cháo v.v..., để vào trong bát, chớ để rau cà. Ở dưới cây râm mát, trước tụng chú Triệu thỉnh, kế tụng chú Khai yết hầu, như trên đã nói. Chú thực vào bát bảy biến xong, đổ vãi dưới gốc cây, khi đó mười phương tất cả ngạ qủy nhờ uy đức lực của đà la ni mà ăn uống được cả. Thức ăn không còn biến hóa thành máu mủ nữa, cũng không bị sự ngăn cản, ăn uống thoải mái, đầy đủ no nê, hết lửa đói khát bốc cháy, thân thể an lạc, không có thống khổ. Lại có gió nhẹ, mềm mại, mát mẻ lướt qua trên thân, tham cấu tiêu trừ, thân hết nóng khổ, an nhiên khoái lạc. Các con trùng độc rúc rỉa trên thân dưới lớp lông dài cũng tự rơi rớt, cũng không có những cầm thú hung ác đến giành giựt cắn xé. Tâm ý dũng mãnh an vui, do nhân duyên này, hết tội thoát được cái thân ngạ qủy, sanh trong nhân loại chư thiên, hưởng được cái vui vi diệu, tự tại thù thắng. Nên biết rằng người bố thí thực phẩm được chư Phật hết lòng ca ngợi. Bấy giờ, đức Thế tôn liền tuyên nói thần chú Thí cam lộ thực đà la ni, chú rằng: Na mô ta bà đát tha già đa, nam phược yết đế, tam muội la tam muội la. Bấy giờ, đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói thần chú đà la ni tên là Đại bi tôn thắng xong, khi đó trời đất chấn động sáu cách, ánh sáng tràn đầy nơi thế giới tam thiên đại thiên này, trời mưa rất nhiều hoa báu cõi trời, và hương báu, chuỗi anh lạc, kỹ nhạc cõi trời cũng rắc xuống như mưa. Ngay lúc đó, những khí cụ trị tội của các ngục Vô gián trong sáu nẻo bỗng va chạm nhau, phát ra âm thanh diễn đạt lý vô thường, khổ, không, giải thoát; vạc sôi lò lửa tự nhiên gãy đổ tan nát; tất cả tội nhân tự biết đời kiếp trước của mình, ai cũng hưởng được một sự vui vẻ y như cái vui cõi thiền thứ ba. Ở trong đại hội, khi nghe đến đây, có người chứng được sơ quả cho đến có người chứng quả A la hán, vô lượng trời người phát tâm Vô thượng bồ đề. Bấy giờ, đức Thế tôn dạy bồ tát Nguyệt Ái và các đại chúng: Đà la ni này rất khó có cơ hội được nghe, huống chi được thấy (văn tự). Câu chi đức Như lai trong quá khứ và vị lai đều cùng tuyên nói đà la ni này. Như nay đây, Như lai là Thích Ca Mâu Ni cũng vì các vị mà khai thị tuyên nói đà la ni này. Thiện nam tử, nếu chư thiên và nhân loại thọ trì như pháp, nhưng chỉ với mục đích bố thí cho qủy thần bị đói khát thúc bách, chẳng nghĩ đến chia cho người chết ngang trái [7], thì không được gọi là thần chú đà la ni Đại bi tôn thắng. Vì sao vậy? Đà la ni này giống như ngọc báu Ma ni có thể thỏa mãn tất cả ý nguyện, cũng như trăng sáng làm cho hoa Ưu đàm bát hé nở tươi đẹp. Thiện nam tử, nếu có vị bồ tát chẳng đắm nơi cái vui của mình, muốn cứu độ người, huân tu tâm đại bi vì lợi ích an vui cho tất cả, thực thi bố thí như pháp, thì vị ấy đích thật là bồ tát tu đại bi, vị ấy đã và đang thực hành hạnh Quán Âm, được tất cả chư Phật nắm tay xoa đảnh, chư tôn bồ tát hết lòng ái hộ, tất cả hiền thánh coi như con đẻ, chư thiên long thần theo hầu bảo vệ. Bồ tát Nguyệt Ái nên biết, công đức của vị ấy cùng bồ tát Di Lặc đồng đẳng. Vì sao như vậy? Vị thiện nam tử ấy nếu có thể phát khởi cái con người trượng phu, hằng ngày tu hành: một ngày thí thực khiến cho ngạ qủy trong một thiên hạ đều được ăn uống; nhiều ngày thí thực khiến cho hết thảy ngạ qủy trong sáu nẻo mười phương được no đủ cả. Vị bồ tát này có được cái đống phước đức không thể nghĩ bàn, chẳng thể so lường, ngoài tầm hiểu biết, tự nhiên chứng được Vô thượng bồ đề. Thiện nam tử, nếu có người ngợi khen, đọc tụng, biên chép đà la ni này thì người ấy vượt thoát sáu mươi ức kiếp vi tế sanh tử thế gian, huống chi tu hành như pháp, không có lúc gián đoạn. Thiện nam tử, Như lai nay nói rõ ràng cho các ông, người trì chú sẽ đối trước đức Phật Di Lặc mà chẳng quyết định được thọ ký Vô thượng bồ đề rằng ở trong Hiền kiếp này thứ tự thành Phật, thì Như lai mắc phải lỗi hư dối với chúng sanh. Từ khi thành đạo cho đến nay, Như lai giảng kinh thuyết pháp không bao giờ có lỗi lầm như vậy. Do đó bồ tát Nguyệt Ái nên biết, các người ở thời kỳ mạt pháp sau này nghe được thần chú này mà thâm tâm tin hiểu, thì các người đó khi chuyển thân sẽ được địa vị Chuyển luân vương, trăm ngàn vạn kiếp thường nhận phước báu của bậc Phạn thiên, gặp Phật xuất thế làm sự cúng dường vô lượng, tu các Phạn hạnh mà về lâu xa đạt được bờ mé của tất cả thần thông, bằng phải thọ sanh thì được thân thể cứng chắc như Na la diên, thọ mạng dài lâu, mang thân kim sắc, tự trang nghiêm bằng ba mươi hai tướng đại trượng phu, được tiếng Phạn âm, có uy đức tự tại trong cả thế gian. Thiện nam tử, ai là người có trí, thấy lợi ích như vậy nhưng chẳng thọ trì, nên biết người này tự đánh mất lợi ích lớn. Bấy giờ, bồ tát Nguyệt Ái nghe lời Phật dạy rồi, hoan hỷ vô lượng, thưa với Phật rằng: Lành thay, đức Thế tôn đã cho chúng con sự lắng nghe an tĩnh, con xin hỏi về đà la ni đại bi bí tạng, xin đức Thế tôn dạy cho chúng con phương cách thế nào, thọ trì ra sao. Bấy giờ, đức Thế tôn mặt vui mỉm cười, quan sát đại chúng, khen ngợi bồ tát Nguyệt Ái: Tốt lắm, đại sĩ có thể hỏi Như lai việc này, hãy một lòng nghe nhận, Như lai sẽ vì ông mà nói. Đức Phật dạy bồ tát Nguyệt Ái: Nếu có người trời ưa vui tiếp nhận, thực hành pháp môn đại bi, thì người ấy nên vào tháng trăng sáng, ngày mùng tám hay ngày rằm, tắm gội nước thơm, xoa các hương thơm, mặc y trắng sạch, ăn ba bữa cơm trắng [8], khởi tâm bi thương, thệ nguyện đem sự an lạc cho các chúng sanh. Khi mặt trời mọc ở phương đông, hay ban đêm lúc trăng tròn đầy, ở chỗ thanh tịnh, hay đất có trăng soi, nên làm mạn đồ la nước thơm [9] bề dài ba khuỷu tay, dùng bùn thơm bôi trên đất để trừ khử cát độc. Đàn tràng mở ra bốn cửa [10], nơi bốn góc đàn để một bát sữa, lại phải đặt bốn bình nước thơm đầy tràn ở bốn cửa đàn, trên miệng bình tùy lúc cột những hoa, thảo mộc năm màu. Phải có năm lư hương: bốn ở bốn góc và một ở trung tâm. Nơi tòa ngồi chính giữa đặt một cái đèn đốt bằng dầu tô, và có thêm bốn bát đựng đầy hoa, nước, gạo và cơm. Ở chính giữa đàn làm một tòa ngồi hình hoa sen, dùng vải vóc tạp sắc bao phủ trên đài, an trí hình Phật hay tượng Quán Thế Âm. Cửa này thì đặt tượng Diêm la, v.v..., cửa phía đông thì bày tượng Chúa trời. Nói tóm, dùng các thứ tràng phan, bảo cái tương phản để nghiêm sức, lại đốt hương thơm A ca lỗ [11]. Như pháp kết đàn tràng rồi, hành giả đứng ở cửa tây, mặt hướng cửa nam. Ở trước tòa ngồi đặt một lò lửa đốt bằng than cứng chắc, lấy sữa tươi hòa với mật ong để vào trong bát. Hành giả thỉnh mười phương Phật và Trú Đại Địa bồ tát, Kim Cang, trời rồng, qủy thần xong, buộc tâm không loạn, tưởng các thứ khổ não của chúng sanh trong sáu nẻo, vẫn hướng về phía nam, tưởng thấy cảnh khổ rồi, bi cảm tột cùng, mong muốn cứu giúp. Lại tưởng thân mình cởi đài hoa báu bay đến chỗ khổ, sửa thân xoa bóp (cho chúng sanh), rơi lệ như mưa, muốn diệt lửa cháy, càng thêm thương xót, đau thấu xương tủy [12]. Quán chiếu như vậy mười bốn biến xong, liền vào trong thiền định, được địa vị người con thương nhất của Như lai. Tưởng rồi xuất quán, mặt đối phương đông, triệu thỉnh mười phương tất cả ngạ qủy. Tụng chú Triệu thỉnh mười bốn biến xong, lại tưởng các loài qủy biến đầy cõi Diêm phù, kế đó tụng chú Khai yết hầu để được giải thoát, rồi chú nguyện đàn tràng: nước thơm, sữa, cơm, hương, hoa v.v..., chú nguyện xong đặt lại chỗ cũ. Hành giả khi đó cầm một chén nhỏ sữa tươi, tụng chú Thí thực ba biến rồi vãi vào trong lửa. Như vậy tụng đủ một ngàn biến, khi đó chỗ đàn tràng có vô lượng trăm ngàn na do tha mười phương ngạ qủy, tất cả tụ tập không chừa chỗ trống, hoan hỷ ăn uống. Tất cả hiện thân theo lời pháp ngữ của hành giả. Nương theo tâm ý của hành giả, thí thực không có trái nghịch. Hành giả liền vì ngạ qủy mà chỉ dạy lợi mừng [13] khiến được giải thoát. Bấy giờ, từ xa chư Phật hiện tại trong các quốc độ mười phương ngợi khen hành giả và còn xa trao thọ ký bồ đề. Tất cả bồ tát hoan hỷ thương nhớ; tất cả trời rồng, mỗi vị cầm hương, hoa, chuỗi anh lạc, các thứ kỹ nhạc, từ xa hiến cúng hành giả. Hành giả do sức tu hành và sức uy thần, chẳng rời tòa ngồi, liền đắc trăm ngàn na do tha đà la ni môn, trăm ngàn câu chi tam muội môn. Thiện nam tử, tóm yếu mà nói, người này, thân hiện tại lửa không đốt cháy, nước không nhận chìm, độc không xâm hại, dao không tổn thương, chuyển tọa thọ thân liền đắc địa vị Thập trụ, thành Như lai địa. Đức Phật dạy bồ tát Nguyệt Ái: Đây gọi là Thí cam lộ vị đại đàn tràng pháp. Nếu muốn mau chóng thể nhập các địa, tam muội môn, đà la ni môn, v.v... và Vô thượng bồ đề, cần phải nhập đại mạn đồ la. Sự việc sẽ không thành tựu nếu có điều tệ hại. Y pháp thực hành, như trên đã nói, chứng nghiệm tất cả vậy. Bấy giờ, đức Thế tôn vì đại bồ tát Nguyệt Ái mà nói kệ rằng: Đà la ni môn này Chư Phật trước đã nói Như lai cũng diễn nói Vì lợi ích trời người. Nếu có người tin ưa Nghe trì chú như vầy Ông nghe công đức ấy Ta nay sẽ lược nói. Nếu ở ngàn ức kiếp Rộng tạo nghiệp bất thiện Do tụng trì chú này Bảy ngày được trong sạch. Bồ tát ở ức kiếp Gom chứa các phước đức Do tụng trì chú này Bảy ngày được thù thắng. Nên biết các pháp Phật Phương tiện không nghĩ bàn Người đắc mới thể biết Lời Phật không có hai. Bấy giờ, đưc Thế tôn lại bảo bồ tát Nguyệt Ái: Thiện nam tử, nên biết công đức của người trì chú, nói không cùng tận, ông nên nhớ nghĩ, như pháp thọ trì. Vì sao vậy ? Mỗi một chỗ Như lai nói kinh, cho dù nói pháp thế gian hay xuất thế gian, bi điền vẫn là bậc nhất. Lại nữa Nguyệt Ái, Như lai vào một thời, vì các Tỳ kheo nói: Có một người dùng tâm thâm kính muốn hiến cúng cho Như lai món ăn thức uống, nhưng chưa kịp hiến cúng, lại có duyên sự đem thức ăn đó bố thí cho con chó, Như lai tán thán người ấy được phước vô lượng. Cho nên Nguyệt Ái, hiến cơm cho một vị A la hán hay Bích chi Phật, hiện tại nhận được phước báu có hạn lượng, chỉ được quả báo nhân thiên trong năm trăm kiếp. Khéo thí cho ngạ qủy một nắm thức ăn, người ấy được phước đức của bồ đề phần: bồ đề thì không có hạn lượng, nên phước thọ cũng không hạn lượng. Ông nay lắng nghe, Như lai sẽ vì ông mà nói công năng và hiệu quả của đà la ni này. Có người bị tội nặng, nghiệp chướng xấu ác trói buộc khó thể đoạn trừ, nếu mỗi ngày người ấy chú nguyện trong cháo sữa để thí cho ngạ qủy, làm đủ bảy ngày, thì tất cả tội chướng đều được tiêu diệt không sót. Lại còn một cách, nếu có người bị bịnh rất nặng và những bịnh qủy ám, nên làm ba chén cháo bột, chú nguyện bảy biến, ở nơi đồng rộng thí cho các ngạ qủy, làm như vậy trong mười bốn ngày thì những bịnh thống khổ liền được lành hẳn. Lại nữa, nếu trong quốc độ mà có ác nghiệp, độc chất lưu hành, dân chúng bịnh dịch, cầm thú chết ngang trái, chết non, thì nên làm lò lửa, lấy hột Tát lợi sát ba (bạch giới tử) hòa trộn với váng sữa, mật ong v.v... , kêu tên các loài qủy như Hoa lợi đa, v.v..., sau đó lấy một nắm hỗn hợp, chú nguyện, ném vào lò lửa. Mỗi ngày còn phải tụng một trăm lẻ tám biến đà la ni, làm như vậy trong bảy ngày rồi thì ác qủy hoan hỷ, độc chất được thu nhiếp, bịnh dịch được trừ diệt. Lại nữa, nếu có người gặp cảnh ngang trái, điều tiếng miệng lưỡi, thì nên lấy nước mật ong, chú nguyện bảy biến, rảy rưới bốn phương, tất cả điều tiếng miệng lưỡi tự nhiên dứt sạch. Lại nữa, nếu biết kẻ oan gia với tâm báo thù, muốn mưu hại mình, nên vào buổi sáng sớm vì các loài qủy mà dọn các món ẩm thực ngon, xưng tên kẻ oan gia, thì các ngạ qủy bèn khiến kẻ ấy trước đó gặp phải suy yếu, tai họa. Lại còn một cách, khi gặp những năm đói kém, nên chú nguyện trong ngũ cốc, sữa tươi, v.v... một trăm lẻ tám biến, ném để vào trong ao hồ, thì tức khắc đất nước được mùa, dân chúng yên vui. Lại còn một cách, nếu muốn có vị Tất để lợi ma da [14] (để sai khiến), thì lấy váng sữa, sữa tươi, v.v..., mặt hướng phương đông, chú tụng một ngàn biến, thí thực cho các ngạ qủy, kêu tên qủy Xá đề đà, qủy Lam bà, v.v... thì các vị qủy kia sẽ đến ngay tức khắc, và khi muốn họ lui đi thì cũng hô tên thì họ liền lui đi. Lại còn một cách, nếu có người muốn có được các thứ tài bảo, nên dọn bày đồ ăn như trên, chú nguyện đủ mười ngàn biến, kêu tên các loài qủy và nói lời cầu xin, thì vàng bạc, bảy báu rơi xuống thí cho hành giả. Lại còn một cách, lấy sài hồ [15], gạo nếp, váng sữa, mật ong, v.v..., bốc một nắm hỗn hợp, chú nguyện vào đó một biến, rồi ném vào lò lửa, làm đủ một ngàn lẻ tám mươi biến, nhất định được tài vật lớn, tất cả mong cầu đều được như ý. Lại còn một cách, nếu muốn đầy đủ hạnh bố thí, hành giả mỗi ngày thí cho ngạ qủy ẩm thực, làm đủ một trăm ngày, liền được đầy đủ hạnh bố thí. Lại có một cách, nếu người cầu thọ mạng kéo dài, tác pháp như trên, đủ một trăm ngày, liền được sống lâu. Lại có một cách, nếu người muốn hiện tại hình sắc đẹp ra, sức khỏe dồi dào, người khác có cái nhìn mỹ cảm, hoan hỷ với mình, thì nên thí cho ngạ qủy mãn đủ một trăm ngày, ắt được như ý. Như vậy lược nói, hết thảy sự cầu, các thứ suy hoạn, đối trị mống ý, đều được tất cả. Những gì Như lai lược nói ra đây chỉ là chút ít. Bấy giờ, đức Thế tôn lại bảo đại bồ tát Nguyệt Ái rằng: Đà la ni kinh này không thể nghĩ bàn, hoặc một kiếp tăng, hoặc một kiếp giảm, nói cũng không cùng công đức chú ấy. Ở đời tương lai có người trì tụng đà la ni kinh, nên biết người ấy bèn đã gom góp hai mươi thứ loại phước đức lớn lao: Một là hiện tại không bị đói khát, tật bịnh, nghèo khốn, suy họa phiền nhiễu thân tâm; hai là những gì ăn uống, không ngon cũng thành thượng vị; ba là nếu có đi vào đồng trống, trùng độc hòa chung dược thảo, trọn chẳng bị thương; bốn là qủy thần, la sát, tinh mị, vọng lượng coi xem người ấy như là đức Phật; năm là chư Phật, bồ tát, thiên tiên, long thần hộ vệ người ấy như giữ gìn tròng mắt; sáu là nếu có bịnh dịch, do nghiệp hay không rõ ràng nguyên do, thì bịnh dịch ấy không lây vào thân; bảy là thọ mạng tăng trưởng, nằm ngủ yên ổn, gặp việc cát tường; tám là đi đường hiểm trở, đồng hoang, thiếu thốn cỏ nước, tự nhiên hợp ý; chín là tướng mạo vui vẻ, da dẻ tươi sáng, không có sắc xấu; mười là người ấy thường gặp bạn lành, cho đến bồ tát hóa hiện làm bạn lữ; mười một là ở đời vị lai thường sanh vào nhà giai cấp Sát đế lợi và vua chúa; mười hai là đầy đủ sắc đẹp, sức khỏe, thọ mạng, an vui, biện tài; mười ba là thường được hóa sanh trước chư Phật, bồ tát; mười bốn là chỗ ở người ấy đang sống, kho tàng ẩn náu tự hiện; mười lăm là người ấy luôn được người khác cung kính tiếp đãi; mười sáu là tài bảo của người ấy không ai có thể đoạt mất; mười bảy là mong cầu sở nguyện của người ấy đều được toại lòng; mười tám là người ấy không sanh vào thời kiếp nạn đói kém; mười chín là thường sanh cõi trời, hưởng vui tôn thắng; hai mươi là thường dùng pháp hỷ thiền duyệt, không có đói khát. Đó là hai mươi thứ phước đức lớn lao. Thiện nam tử, đà la ni này có uy đức tự tại: Nếu thấy người đang đói khát, mặt hướng về người đó mà tụng đà la ni này thì người đó liền được no đủ. Chú nguyện vào cây khô còn được xanh tươi, huống là loài hữu tình sao không được phước. Vì sự tối thắng của đà la ni này nên Như lai ân cần ba phen giảng nói, nay giao phó cho ông, ông phải nhớ giữ, vì chúng sanh giảng nói, chớ cho quên mất. Bấy giờ, bồ tát Nguyệt Ái từ Phật được nghe pháp phương tiện này, hoan hỷ hào hứng, liền lấy ngọc ma ni Tỳ lăng già, chuỗi anh lạc và các hương hoa mà rải lên đức Phật, ở trước Phật dùng kệ tán thán: Đại bi quán thế âm Ca lăng tần già âm Dùng các lời nói hay Khai thị pháp cam lộ. Vì muốn phá phục hết Những núi nghiệp rộng lớn Bằng cửa phương tiện này Ân cần giao phó con. Con theo lời Phật dạy Cố gắng rộng lưu bố Chỉ xin sanh trong pháp Mau thể hội pháp thân. [16] Đức Phật nói kinh này xong, tất cả hàng đại bồ tát, Kim cang lực sĩ, Thích đề hoàn nhân, Phạn vương, Tứ thiên vương, các chúng trời rồng, qủy thần, nghe đức Phật tán thán, giảng thuyết Đà la ni pháp thân na tất lợi đa cam lộ vị này, thảy đều hoan hỷ, vâng theo lời dạy để tu hành. Kinh Thí Ngạ Quỷ Cam Lộ Vị Đà La Ni Thần Chú Nam mô bộ bổ lợi, đát tha yết đa da, án tát bà tích rị đa yết la da, a già xoa, sa ha. Đây là khế ấn của đà la ni: Đứng thẳng, hai bàn chân làm thành chữ thập [17], trước dùng tay trái ngữa ra, rũ xuống đầu gối, làm tướng thí vô úy, kế đến bàn tay phải, ngón cái gập vào lòng bàn tay, bốn ngón nắm lại, đưa đụng vòng ngọc đeo nơi tai phải [18], dùng phần không có đầu ngón để đong đưa qua lại,liền tụng diệu ngôn ba biến. Lúc đó, hành giả quán tưởng tất cả ngạ qủy, ba mươi sáu bộ qủy thần đều vân tập, chắp tay chiêm ngưỡng hành giả. (Công đức của) diệu ngôn đà la ni này là: Nếu có thiện nam tử, nữ nhân, đồng nam, đồng nữ thọ trì, tán tụng đà la ni này thì hiện đời được mười thứ phước đức. Những gì là mười ? Một là thuốc độc không thể trúng; hai là rắn độc không dám cắn; ba là dao gậy không thể hại; bốn là vua quan không dám sân; năm là mọi người đều yêu kính; sáu là trời rồng thường ủng hộ; bảy là y thực đều sung túc; tám là dung mạo đoan chánh; chin là rời xa những sợ hãi; mười là không thọ thân ba đường. Án bộ bổ rị, già đát rị, đát tha yết đa da. Đây là khế ấn của đà la ni: Căn cứ theo ấn tướng mời gọi cùng cách đứng như trên, rồi chắp tay mười ngón, đầu ngón chạm nhau, khoảng giữa các ngón xa ra một tấc, phần cổ tay mở ra đặt ngang trái tim. Đây gọi là Đại bi tâm luân đà la ni pháp. Khi kết khế ấn này, tụng niệm diệu ngôn bảy biến. Lúc đó, quán tưởng trên khế ấn có một viên bảo châu ma ni bằng thủy tinh, phóng ánh sáng thủy tinh, chiếu chạm các loài qủy, tất cả lửa dữ thảy đều tiêu mất. Ánh sáng thủy tinh này vào trong miệng qủy thì cổ họng của chư qủy đều được thông suốt, lìa các khổ não. Nam mô tố lỗ ba duệ, đát tha yết đa da, đát điệt tha, tô lỗ, tô lỗ, ba la tô lỗ, sa bà ha. Đây là khế ấn của đà la ni: Ngồi bán già như cách ngồi của Chuyển luân vương, trước dùng bàn tay phải làm dáng như nâng cần cổ (em bé), cách cần cổ chừng một tấc, cùi trỏ đặt trên đùi phải, kế đến ngữa nghiêng bàn tay trái [19] duỗi năm ngón rũ trên đùi phải, làm dáng cho bú sữa. Khi làm thủ ấn này, tụng niệm diệu ngôn bảy biến, quán tưởng tay trái năm ngón chảy ra dòng sữa màu trắng, màu như bạch ngân, chảy mãi không dứt. Các loài qủy há miệng hứng sữa, đều được no đủ. Thiện nam tử, người làm khế ấn này, hiện đời được mười sáu thứ công đức. Những gì là mười sáu ? Một là thọ mạng dài lâu; hai là nhan sắc đẹp đẻ; ba là khí lực sung mãn; bốn là tâm thường hoan lạc; năm là biện tài không ngưng; sáu là luôn không tưởng đói; bảy là trong miệng thơm tho; tám là người đều kính ngưỡng; chín là thiên thần thị vệ; mười là qủy Tỳ xá na hiện hình cung cấp; mười một là thân không bịnh hoạn; mười hai là oai đức như vua; mười ba là ác nhân, ác qủy thấy đều hoan hỷ; mười bốn là được phước thiên luân vương; mười lăm là mộng thấy chư bồ tát, la hán; mười sáu là nơi chốn sanh ra, thế giới chấn động. 23.06.2009 (Mùng 1 tháng 5 nhuần Kỷ Sửu) [1] Đời Đường gọi là Thí ngạ qủy cam lộ vị đại đạo tràng hội đà la ni. Thân na = bố thí. Tất lợi đa = ngạ qủy. Ma đà la = cam lộ vị. Ban giá (vu sắt) hội = vô giá hội: pháp hội thực hành tài thí và pháp thí một cách bình đẳng, không phân biệt hiền thánh, tăng tục, sang hèn, trên dưới. [2] Qủy Bệ lệ đa = qủy đói, qủy Xa da = qủy hình ảnh, qủy Kiện đà = qủy ăn hương, qủy Bố sắc ba = qủy đói ăn hoa, qủy Kệ bà da = qủy ăn bào thai, qủy A thâu giá = qủy ăn bất tịnh, qủy Bà đa = qủy ăn gió, qủy Ô đà ha la = qủy ăn tinh khí, qủy Đà la chất đa = qủy tâm sân, qủy Chất đa = qủy tâm ác, qủy Bà lỗ da = qủy ăn đồ tế tự, qủy Thị vĩ đa = qủy ăn thọ mạng của người, qủy Khởi sa kê đà = qủy ăn thịt mỡ, qủy Xà để = qủy ăn trẻ sơ sinh, qủy Yết tra bố đơn na = qủy thân có mùi hôi xương cháy, qủy Cưu bàn trà = qủy giữ cung điện, qủy Tất xá giá = qủy thần giữ nhà xí, ăn đồ bất tịnh. [3] Chỉ cho thân lượng cực dài lớn là một do tuần, cỡ nhỏ nhất bằng đứa bé biết nói. [4] Ý nói cái đầu có thể lớn như ngọn núi. Thế giới này lấy núi Tu di (sumeru) làm trung tâm, chung quanh núi Tu di có 7 vòng núi vàng, vòng ngoài cùng là núi Di lâu. [5] Ma già đà (Magadha) tân dịch là Ma kiệt đà, cựu dịch là Ma già đà, là tên một nước ở miền trung Ấn Độ. [6] Bạch lạp: hợp kim chì và thiếc. [7] Chết ngang trái: hoạnh tử. Kinh Dược Sư kể ra có 9 thứ hoạnh tử. [8] Tam bạch thực: Ba bữa trắng, là ăn thức ăn làm bằng sữa, gạo, lúa mạch. [9] Hương thủy mạn đồ la: Còn gọi là Đàn địa. [10] Ban ngày thì dựng đàn bốn hướng, ban đêm thì dựng đàn hình trăng tròn. [11] A ca lỗ hương: Trầm thủy hương. [12] Hành giả nếu tâm chưa tương ưng thì quán tưởng các ngạ qủy như cha mẹ, vợ con, những người mà mình thương yêu. [13] Chỉ dạy lợi mừng: Chánh văn là thị giáo lợi hỷ. Đây là lối thuyết pháp của Phật và bồ tát, theo đó thị là trình bày cho người nghe rõ thiện ác, tốt xấu; giáo là thuyết phục người nghe bỏ ác làm lành, rời xấu theo tốt; lợi là chỉ ra sự lợi ích của việc thực hành ấy; hỷ là tán thưởng sự thực hành ấy cho người nghe vui mừng. [14] Tất để lợi ma da: Tất để lợi = tất điệt rị: con gái, đàn bà. Ma da = ma la (Màra): ác qủy cướp đoạt nhân mạng, gây nhiễu loạn, phá hoại thiện sự của loài người. Đây là tên nữ qủy hộ trì cho người trì chú. [15] Sài hồ: Thảo dược sống lâu năm, mùa hạ nở hoa nhỏ màu vàng. [16] Chánh văn là Thảo phục dĩ vi Lô, nghĩa là Cỏ rồi sẽ làm Lô. Tạm hiểu, cỏ chỉ cho chúng sanh căn tánh nhỏ bé, Lô là Tỳ lô giá na, chỉ cho pháp thân Phật. [17] Hai bàn chân thẳng góc với nhau. [18] Tay phải cong đụng dái tai phải. [19] Chánh văn là bàn tay phải, đùi phải, ngờ rằng là bàn tay trái, đùi phải, vì tay phải đã làm dáng nâng cần cổ. Đây là Thí nhũ mẫu thủ ấn.